Số 16 - Phát biểu của Kissinger và Schmidt tại Diễn đàn Thế kỷ 21
Phát biểu của Kissinger và Schmidt tại Diễn đàn Thế kỷ 21
do Hội nghị Chính trị Hiệp thương Trung Quốc tổ chức
Tác giả: Kissinger, Schmidt.
1. Thế giới trong thế kỷ 21
Kissinger :
Trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh, lần đầu tiên trong lịch sử, nước Mỹ phải thực hiện chính sách đối ngoại toàn cầu mà không có kẻ thù ý thức hệ hoặc đối thủ chiến lược rõ rệt nào, một thế giới mà Mỹ không thể thống trị mà cũng không thể rút lui được. Không thể áp dụng phương châm cũ : triển khai mạnh mẽ chính sách đối ngoại chống sự thách thức về ý thức hệ. Cuộc tranh luận về chính sách đối ngoại hiện nay chịu ảnh hưởng của nhiều quan điểm của nhiều thế hệ khác nhau. Thế hệ chiến thắng trong Chiến tranh thế giới thứ hai đã thiết lập trật tự thế giới Chiến tranh lạnh. Thế hệ chiến tranh Việt Nam coi chính sách đối ngoại của Mỹ là một sai lầm khủng khiếp và chủ trương không can thiệp như Chiến tranh thế giới thứ nhất và nhấn mạnh những vấn đề "mềm" như môi trường hay những vấn đề xã hội. Mỹ là siêu cường quân sự duy nhất còn lại, nhưng giải pháp bằng hành động quân sự đang đi xuống. Hiện nay có 6, 7 nước có khả năng áp đặt thế giới ngoài khuôn khổ vũ khí hạt nhân. Các nước lớn đều tránh chiến tranh lớn với nhau. Trật tự thế giới phải dựa trên một sự cân bằng nào đó, ít nhất là trong nội bộ và giữa các khu vực với nhau.
Nền kinh tế thế giới đã trở nên toàn cầu hoá cao độ. Mỗi ngày 1000 tỷ đôla di chuyển trong thị trường thương mại thế giới, trong đó chỉ có 5% từ giao dịch thương mại. Sự phồn vinh toàn cầu vừa mật thiết vừa mỏng manh: một viên chức ngân hàng ở Singapore có thể làm thất thoát 27 tỷ đôla trong 3 ngày và làm sụp đổ một ngân hàng lớn của thế giới. Mối đe doạ hoà bình hiện nay là các xung đột khu vực chứ không phải là xung đột của các nước lớn. Các nước không riêng gì Mỹ đều phải điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế trong nước và quốc tế.
Helmut Schmidt :
Trung Quốc, Nga và Mỹ vẫn là những cường quốc quan trọng nhất trên thế giới. Mỗi thế kỷ thế giới đều thay đổi. 100 năm trước đây người ta dự đoán những cường quốc đều ở châu âu, ít người thấy được Mỹ và Nhật. Và không ai lượng trước được Đức và Nhật trở thành đế quốc rồi sụp đổ nhanh chóng cũng như việc Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra sau Chiến tranh thứ nhất có 2 thập kỷ. Do đó ta cũng không thể lường hết được điều gì sẽ xảy ra trong thế kỷ 21. Ngày nay người ta cho rằng sẽ không có chiến tranh thế giới nữa, nhưng cần nhớ câu châm ngôn latinh - người với người là chó sói. Hiếu hoà không phải là bản năng của con người, ý thức giữ gìn hoà bình không phải là đặc trưng của mọi chính khách trên thế giới. Do đó chúng ta cần sáng suốt và giữ gìn hoà bình.
Vấn đề thấy rõ là tiếp tục bùng nổ dân số. Thời Khổng Tử và Giêsu, thế giới chỉ có 200 triệu người. 2000 năm sau tăng lên 1.600 triệu người vào đầu thế kỷ 20. Nhưng chỉ 100 năm nay đã tăng lên thành 6.000 triệu và trong 25 năm nữa sẽ là 8.000 triệu trong khi đất canh tác ngày càng bị thu hẹp. Trung Quốc và ấn Độ có dân số đông nhất và dân số tiếp tục tăng. Các nước công nghiệp phát triển OECD kể cả Nhật, dân số ổn định. Tình hình trên có thể dẫn tới những cuộc di dân ồ ạt và chiến tranh ở một số khu vực cũ do đất đai và tôn giáo như ở Châu Phi, Nam Tư cũ, Trung Đông và Kashmire... Ngoài ra còn có nguy cơ xung đột giữa các nền văn minh do thiếu hiểu biết nhau giữa Thiên chúa giáo, Hồi giáo, ấn Độ giáo, Phận giáo, Khổng giáo... Các tôn giáo nói chung đều có giáo lý giống nhau cần khoan dung với nhau.
Các nhà lãnh đạo cần gặp nhau. Trước đây đã đề nghị, nay nhắc lại cần mời Nga, Trung Quốc, cũng như ấn Độ và sau này cả Brazil nữa tham gia đầy đủ Cấp cao của G7.
2. Về Châu Á
Kissinger :
Mỹ có lợi ích thiết thân đối với hoà bình và ổn định ở châu á và trong quan hệ xây dựng với các nước ven bờ Thái Bình Dương. Mỹ đặc biệt quan tâm năng động về kinh tế của châu á. Châu á là khu vực phát triển nhanh nhất thế giới, chiếm một nửa GNP và dân số thế giới. Nhưng lợi ích của Mỹ vượt xa lĩnh vực kinh tế. Tất cả những cuộc chiến tranh lớn mà Mỹ dính líu đều bắt nguồn từ châu á. Các nước châu á có một số đặc điểm chung : mâu thuẫn giữa chủ nghĩa quốc tế do nhu cầu phát triển kinh tế và thông tin toàn cầu và chủ nghĩa dân tộc mà một số nước coi là sự nhất trí chính trị: khác biệt quan trọng giữa các nước châu á và châu âu : các nước châu âu không xung đột vũ trang với nhau, ngược lại nhiều nước châu á coi nhau là đối thủ chiến lược và mối đe doạ tiềm tàng (trừ các nước ASEAN - không kể Việt Nam); các nước châu á cho rằng Mỹ hay thay đổi chính sách và lãnh đạo Mỹ là không thể lường trước được. Tình hình đó đã buộc Mỹ phải có những quan hệ song phương về chính trị và an ninh khác với châu âu. Cụ thể đối với 3 nước lớn đang nổi lên.
Nhật Bản đang trong quá trình chuyển đổi thể chế chính trị và có thể cả phương hướng chính sách đối ngoại sau chiến tranh. Chế độ bầu cử đang thay đổi và có thể sau một, hai lần bầu cử nữa sẽ có một chính đảng mới chiếm ưu thế. Thời kỳ tự thủ tiêu về chính trị sẽ chấm dứt. Chính sách của Nhật sẽ có tính quốc gia hơn và trước hết là chính trị hơn.
Ấn Độ đang chuyển nhanh sang cơ chế thị trường và chính sách đối ngoại tích cực hơn. Khi trở thành cường quốc, ấn Độ có thể trở lại chính sách Phó vương trước đây giành lại ảnh hưởng, nếu không phải là thống trị trong vòng cung từ Aden đến Singapore, sửa đổi chính sách thế kỷ 19 về Tây Tạng và Miến Điện, và có thể gây căng thẳng với Indonesia, Việt Nam và một mức độ thấp hơn với Trung Quốc về khu vực Đông Nam Á.
Helmut Schmidt :
Trung Quốc và Ấn Độ có nền văn hoá lâu đời hơn châu âu và Mỹ rất nhiều. Người Mỹ và châu âu cần phải chấp nhận truyền thống đạo lý châu á về quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội và quốc gia. Châu âu không thể bắt chước người Mỹ coi thường xã hội và văn minh châu á, lên lớp cho họ về nhân quyền của phương Tây. Cách đây mới 5 thập kỷ, người Đức đã vi phạm trầm trọng nhất về nhân quyền, diệt chủng hàng triệu người Do Thái. Phương Tây ít nói về hàng vạn người bị giết ở Chechnia và không quan tâm đến vụ tàn sát ở Nigeria nhưng lại lên án mạnh mẽ vụ Thiên An Môn.
Trung Quốc, Nhật và Mỹ phải xác định lợi ích lâu dài của mình, loại bỏ những mâu thuẫn và khẳng định những lợi ích chung như ngăn chặn việc phổ biến vũ khí hạt nhân, đặc biệt là Bắc Triều Tiên, cả hai bên đều không ngăn cản hoà bình thống nhất Triều Tiên. Trung Quốc, Triều Tiên và các nước khác ở Đông á và Thái Bình Dương không muốn Nhật tăng cường khả năng quân sự vì đã bị Nhật tấn công và chiếm đóng trước đây. Những nhà lãnh đạo Triều Tiên và nhiều nước khác muốn sự có mặt của Mỹ ở Viễn Đông và Thái Bình Dương - Bắc Kinh cũng phải chấp nhận điều đó. Việc Trung Quốc mạnh lên cả về quân sự đang làm cho một số nước phương Đông và Đông Nam á lo ngại. Lý Quang Diệu đã gọi Mỹ là cường quốc "ít đáng nghi ngờ hơn" so với Trung Quốc và cả Nhật. Một số nhà lãnh đạo còn coi sự có mặt của Mỹ là nhân tố ổn định hoặc nhân tố bảo đảm. Trung Quốc không thích điều đó nên vai trò của Mỹ cần có giới hạn, chỉ giúp Đài Loan vũ khí tự vệ.
APEC chưa thể so sánh được với thị trường chung châu âu. Khác với quan hệ của Pháp đối với Đức sau chiến tranh, Trung Quốc còn chưa bỏ qua tội lỗi của Nhật trước đây. Rõ ràng là hoà giải với Nhật sẽ có lợi cho Đông á và Đông Nam á. Các con hổ còn đang lớn mạnh, tiếp theo Thái Lan, Malaysia, Indonesia còn có cả Philippines và Việt Nam. ấn Độ cũng có hoàn cảnh như Trung Quốc, khu vực quốc doanh và lệ thuộc qquốc doanh quá to lớn nên bị thâm hụt về tài chính, hạ tầng cơ sở, năng lượng và giao thông vận tải bị lạc hậu cần đầu tư lớn, hiện chỉ phát triển được ở vùng có giao thông. ấn Độ có sẵn hệ thống luật phù hợp với luật quốc tế, nhưng lại không có đầu tư lớn của Hoa kiều và trung tâm tài chính Thượng Hải, Hồng Kông. Trong thế kỷ tới cả hai nước sẽ có tiến bộ nhanh về kinh tế, nhưng Trung Quốc sẽ vượt ấn Độ. Trung Quốc nên duy trì tinh thần Bandung trong quan hệ với ấn Độ. Tuy nhiên, vẫn tiềm tàng sự tranh chấp ở khu vực Trung á liên quan tới Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Pakistan, Trung Quốc, 5 nước Cộng hoà Trung á thuộc Liên Xô trước đây và có thể cả ấn Độ nữa.
3. Về Trung Quốc
Kissinger :
Sau năm 1949, Trung Quốc và Mỹ không có quan hệ trong 20 năm. Từ 1971 đến 1989 gần như là quan hệ chiến lược. Nhưng sau đó quan hệ đi xuống dần do Quốc hội Mỹ gây sức ép về vấn đề nhân quyền và gần đây là về vấn đề Đài Loan. Một số người ở Mỹ thấy Trung Quốc mạnh lên đòi phải có chính sách ngăn chặn Trung Quốc như trước đây. Đó chỉ là ảo tưởng, không ai làm như vậy vì sẽ làm các nước châu á cụm lại với nhau và tăng thêm chủ nghĩa dân tộc châu á, Nhật sẽ ít chịu ảnh hưởng của Mỹ, Triều Tiên có thể trở thành thùng thuốc súng.
Cả hai chính đảng của Mỹ đều thấy rằng muốn có ổn định ở châu Á thì cả Mỹ và Trung Quốc đều phải tham gia kiến tạo tương lai cho châu Á. Không thể xung đột hoặc cô lập Trung Quốc, lợi ích của Mỹ đòi hỏi phải hợp tác. Đã đến lúc phải chấm dứt dùng trừng phạt đối với vi phạm nhân quyền của Trung Quốc mà phải dùng biện pháp ngoại giao bình thường. Về Đài Loan, 6 Tổng thống kế tiếp của Mỹ đã thừa nhận chỉ có một Trung Quốc, không công nhận chính sách hai Trung Quốc hay một Trung Quốc, một Đài Loan và mong muốn có giải pháp hoà bình, hoan nghênh những sáng kiến thương lượng giữa hai bên.
Mỹ và Trung Quốc có lợi ích chung về ổn định và tiến bộ của châu Á. Các nước trên thế giới đều có lợi với một châu Á phồn vinh và có sự cam kết của Mỹ về tương lai châu Á. Hội nghị này cũng góp phần vào nhiệm vụ quan trọng đó.
Helmut Schmidt :
Từ 1975, đã 8 lần thăm Trung Quốc, 10 năm trước đây đã viết cuốn sách "Những con người và cường quốc", trong đó chỉ nêu 3 cường quốc : Mỹ, Liên Xô và Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, tức là ngay từ lúc đó đã coi Trung Quốc là một cường quốc. Tổng thống Mỹ nên đối thoại với lãnh đạo Trung Quốc để thấy họ phải hiện đại hoá nền kinh tế, đồng thời phải tránh xáo động về chính trị như ở Nga và Ukrain và tránh xung đột với nước láng giềng.
Mỹ và cả Đài Loan cần chấp nhận khẩu hiệu của Trung Quốc "một nước, hai chế độ". Một số người Mỹ cho rằng Trung Quốc hiếu chiến và phải ngăn chặn. Ngược lại một số người Trung Quốc cũng cho rằng Mỹ muốn gây mất ổn định ở Trung Quốc hoặc ít ra là trong Ban lãnh đạo Trung Quốc. Cả hai suy nghĩ đó đều sai.
Tôi đã nghe Breznev và cả Mao Trạch Đông nói có thể có chiến tranh giữa hai nước của họ, nhưng đã không xảy ra điều đó và càng khó xảy ra khi Giang Trạch Dân và Yeltsin gặp nhau ở Thượng Hải và hiệp ước không xâm lược đã được ký kết.
Trung Quốc có khả năng quân sự để tấn công Hồng Kông và Đài Loan nhưng họ đã dùng biện pháp ngoại giao. Người Mỹ và châu âu cần thấy sự ôn hoà đó của Trung Quốc. Trung Quốc không những là một thị trường lớn nhất hiện nay mà cả trong thế kỷ sau nữa. Hiện nay đang thành lập nhiều khu vực thị trường tự do, ngay Trung Quốc đứng một mình cũng có tiềm lực như là một khối thương mại rồi.
Tôi đã vẽ một bức tranh thuận lợi về tương lai của Trung Quốc. Nhưng thẳng thắn và thành thật, tôi cần phải nói thêm rằng sự thành công của Trung Quốc còn phải tuỳ thuộc vào một số cái "Nếu" quan trọng. Một trong cái "nếu" là liệu có sớm xây dựng được hạ tầng cơ sở hiện đại và mở rộng vào các tỉnh nội địa để các tỉnh và dân nông thôn tham gia hay không.../.