Số 20 - Đánh giá chung về APEC: những thuận lợi và khó khăn trong tiến trình hội nhập của Việt Nam

04:08 22/03/2012

Đánh giá chung về APEC: những thuận lợi và khó khăn trong tiến trình hội nhập của Việt Nam

Tác giả: Bùi Thanh Sơn.

Trong hơn hai thập kỷ qua, châu A' - Thái Bình Dương (CA-TBD) luôn duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và năng động, ngày càng nổi lên và đóng vai trò quan trọng trong các vấn đề kinh tế, chính trị trên thế giới. Sự phát triển năng động đó đã thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế ở khu vực một cách tự nguyện, khác với những liên kết kinh tế mang tính thể chế ở các khu vực khác trên thế giới. Trong bối cảnh đó, APEC ra đời. Từ một Diễn đàn tham khảo ý kiến lỏng lẻo gồm 12 nước thành viên ban đầu, APEC đã từng bước được thể chế hoá và đến nay đã có 18 thành viên, trong đó có các nền kinh tế đứng hàng đầu thế giới như Mỹ, Nhật Bản. Trải qua gần 8 năm hình thành và phát triển, APEC không chỉ lớn mạnh về số lượng thành viên, mà còn củng cố được cơ cấu tổ chức, đề ra được những chương trình hành động cụ thể nhằm thúc đẩy buôn bán, mở rộng đầu tư, cắt giảm hàng rào thuế quan. .. giữa các nước thành viên.

Từ 1986, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới và từng bước triển khai chính sách đối ngoại rộng mở, hội nhập vào khu vực và thế giới. Nhìn tổng quát, "công cuộc đổi mới 10 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng"(1) . Riêng trong lĩnh vực đối ngoại, việc Việt Nam tham gia ASEAN tháng 7 năm 1995 được coi là bước đi đầu tiên nhưng rất cơ bản trong quá trình hội nhập và tham gia các tổ chực hợp tác kinh tế rộng lớn hơn ở khu vực và trên phạm vi thế giới như APEC và WTO.

Năm 1996 chúng ta đã đệ đơn xin gia nhập APEC. Vấn đề đặt ra hiện nay là cần phải nghiên cứu kỹ tổ chức này để chủ động khai thác và tranh thủ những điều kiện thuận lợi, đồng thời hạn chế tối đa những tác động không thuận đối với nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập APEC. Bài viết này nêu đánh giá cá nhân về Tổ chức hợp tác kinh tế Châu A' - Thái Bình Dương (APEC) và những thuận lợi hoặc khó khăn đặt ra cho Việt Nam.

I. Đánh giá chung về APEC và triển vọng :

1. Một số đánh giá về APEC:

1.1. APEC được mô tả theo nhiều cách khác nhau: Một tiến trình, một diễn đàn. Nhưng đến nay, APEC vẫn chưa phải là một tổ chức quốc tế theo đúng nghĩa của nó. Có thể nói đơn giản, APEC là một Diễn đàn hợp tác không chính thức để các nền kinh tế trong khu vực tham khảo và trao đổi quan điểm, phối hợp các hoạt động và chính sách kinh tế nhằm duy trì và thúc đẩy hơn nữa quá trình hợp tác và liên kết kinh tế đã và đang diễn ra ở CA-TBD, tiến tới thực hiện mục tiêu tự do hoá hoàn toàn về thương mại và đầu tư ở khu vực vào năm 2020.

Do tính đa dạng của khu vực CA-TBD, bao gồm những quốc gia lớn nhất và nhỏ nhất, những nước giàu mạnh nhất và những nước còn rất nghèo nàn, lạc hậu, những khác biệt về thể chế chính trị và mô hình phát triển kinh tế, APEC đã phải dần tìm ra và thực hiện phương thức hợp tác độc đáo, phù hợp với đặc điểm của khu vực, đó là "phương thức APEC". Qua các văn kiện của APEC và diễn văn của các nhà lãnh đạo các nước cho thấy "phương thức APEC" bao gồm một số nguyên tắc cơ bản như : tôn trọng lẫn nhau, tự chủ tự nguyện ; hiệp thương nhất trí, bình đẳng cùng có lợi ; thừa nhận tính đa dạng và cho phép linh hoạt, mềm dẻo... Các thành viên của APEC thường được nhắc tới với tư cách là "các nền kinh tế" chứ không phải là các quốc gia có chủ quyền như các tổ chức quốc tế khác. Điều này cho phép APEC có thể kết nạp đồng thời cả Trung Quốc, Đài Loan và Hồng Kông, nhưng sẽ cản trở APEC có thể mở rộng nội dung ra bàn các vấn đề liên quan đến an ninh, chính trị ở khu vực.

1.2. Do quy mô rộng lớn và nội dung đa dạng trong khái niệm hợp tác, APEC được coi là một tiến trình còn đang vận động và phát triển, ngày càng hoàn thiện về cơ cấu và vai trò.

Mặc dù tại Hội nghị Bogor 11/1994, APEC quyết định ngừng kết nạp thành viên mới cho đến 1997, hiện nay đã có thêm 11 nước và lãnh thổ nộp đơn xin gia nhập tổ chức này (2) . Điều đó chứng tỏ APEC là một Diễn đàn có sức sống, đáp ứng yêu cầu và lợi ích chính đáng của đông đảo các nền kinh tế trong khu vực CA-TBD.

Xét về cơ cấu tổ chức, APEC phát triển từ một diễn đàn tham khảo ý kiến lỏng lẻo thành một cơ chế chủ yếu nhằm thúc đẩy đối thoại khu vực và hợp tác kinh tế, và đang dần dần được thể chế hoá thành một tổ chức chặt chẽ hơn với mục tiêu tự do hoá thương mại và đầu tư ở CA-TBD. Hiện APEC đã có 10 nhóm làm việc(3) với chức năng cơ bản là tiến hành khảo sát về tiềm năng phát triển nhằm thúc đẩy hợp tác giữa các nước thành viên trong các lĩnh vực rộng lớn như phát triển cơ sở hạ tầng, chuyển giao công nghệ, giáo dục và đào tạo, bảo vệ môi trường... Các nước thành viên APEC đã xây dựng được những mối liên hệ giữa các quan chức chính phủ với giới kinh doanh và giới học giả nhằm tạo ra tính năng động và hiệu quả của quá trình hợp tác giữa các thành viên.

Ngoài Ban thư ký, Uỷ ban về buôn bán và đầu tư, Uỷ ban về ngân sách và hành chính cùng một số tiểu ban đặc biệt, điều đáng chú ý trong cơ cấu tổ chức của APEC là sự tồn tại của nhóm các nhân vật nổi tiếng (EPG), hoạt động với tư cách là nhóm cố vấn đề xuất các kiến nghị về triển vọng và các biện pháp để tăng cường hợp tác kinh tế và thúc đẩy tự do hoá thương mại, đầu tư.

Với Hội nghị bước ngoặt ở Seattle 11/1993, APEC đã khởi động tiến trình thể chế hoá về cơ cấu tổ chức và đề ra được viễn cảnh cho tương lai nhằm xây dựng một "Cộng đồng kinh tế CA-TBD". Những Hội nghị cấp cao tiếp theo của APEC ở Bogor (Indonesia) năm 1994, Osaka (Nhật Bản) năm 1995, và Manila (Philippin) năm 1996 đã từng bước biến APEC từ một Diễn đàn đối ngoại thành một Diễn đàn hành động và bước đầu đã đem lại kết quả trên thực tế, ngày càng phát huy vai trò và ảnh hưởng rộng lớn trong đời sống kinh tế và chính trị ở khu vực.

1.3. Tiến trình APEC đang và sẽ có những tác động sâu sắc và rộng lớn đối với hầu hết các nước lớn và nhỏ ở khu vực. Nếu những mục tiêu và kế hoạch của APEC được thực hiện thành công thì nó không chỉ có ý nghĩa kinh tế to lớn biến khu vực CA-TBD rộng lớn thành khu vực buôn bán và đầu tư tự do (vào năm 2020), thúc đẩy hơn nữa tiến trình tự do hoá toán cầu mà còn có ý nghĩa và tác động sâu sắc về chính trị an ninh ở khu vực.

So với tổ chức Thương mại thế giới (WTO), APEC có cùng chung mục tiêu là thúc đẩy tự do thương mại, nhưng khác ở chỗ hoạt động của APEC mang tính tự nguyện, không có cơ chế giải quyết tranh chấp, phạm vi hợp tác rộng và sâu hơn bao gồm cả hợp tác kinh tế và kỹ thuật ; định ra được mục tiêu cụ thể về một khu vực mậu dịch và đầu tư tự do, có cơ chế họp cấp cao thể hiện quyết tâm và áp lực chính trị đối với việc thực hiện các cam kết tự nguyện, đồng thời thúc đẩy đạt được và thực hiện các thoả thuận tại WTO như Hiệp định công nghệ và thông tin vừa qua ở Singapore. Như vậy APEC có mối quan hệ chặt chẽ và hỗ trợ cho WTO nhằm đạt được mục tiêu lớn lao là phát triển và thịnh vượng ở khu vực và rộng hơn trên toàn cầu.

APEC là một Diễn đàn hợp tác xưa nay chưa từng có, lôi kéo sự tham gia đồng thời của Trung Quốc (một cường quốc đang nổi lên), Mỹ (siêu cường duy nhất), Nhật Bản (cường quốc số 2 về kinh tế và đang vươn lên về chính trị, quân sự) và trong tương lai - của Nga (đã từng một thời là siêu cường) trong một khu vực mà bất ổn và kình địch từng ngự trị suốt một thế kỷ qua, mở ra khả năng hợp tác giữa các nước lớn này và tạo điều kiện thuận lợi để duy trì hoà bình, ổn định và phát triển ở khu vực. Đồng thời APEC còn tạo ra khuôn khổ khu vực để giải quyết các mâu thuẫn thương mại, đặc biệt giữa Mỹ với Nhật Bản và Trung Quốc, ổn định các mối quan hệ kinh tế trong vùng.

Các nước vừa và nhỏ ở khu vực đều nhận thức được những thách thức to lớn mà họ phải đương đầu khi tham gia và thực hiện các cam kết trong APEC. Nhưng đồng thời họ cũng thấy được những cơ hội to lớn, đó là tiếp cận được với những thị trường lớn, đón bắt được những luồng đầu tư và chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển; có môi trường để thử sức và nâng sức cạnh tranh, có tiếng nói trong đàm phán đa phương có cùng một luật chơi điều tiết các quan hệ buôn bán, đầu tư... tương đối ổn định. Vì vậy cho đến nay, hầu hết các nước vừa và nhỏ trong APEC đều thể hiện quyết tâm cao tham gia tích cực vào tổ chức này.

2. Một số vấn đề đặt ra và triển vọng của APEC :

Nhìn bao quát toàn bộ quá trình hình thành và phát triển của APEC từ 1989 đến nay có thể thấy nó đã đạt được những thành tựu đáng kể cả về cơ cấu tổ chức lẫn nội dung hoạt động và đang lôi cuốn sự tham gia của các nước trong khu vực CA-TBD. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức và nhiều việc phải giải quyết để có thể tiếp tục phát triển. Dưới đây xin nêu một số thách thức và vấn đề đặt ra cho APEC trong thời gian tới.

Thứ nhất, cho đến nay APEC đã thành công trong việc đề ra được "chương trình hành động" chung của tổ chức và "chương trình hành động" riêng lẻ của từng nước thành viên, tiến tới tự do hoá thương mại và đầu tư trong từng nước thành viên để rồi tiến tới tự do hoá thương mại và đầu tư trong khu vực vào năm 2020. Tuy nhiên, việc thực hiện còn gặp khó khăn và thử thách do:

- Tính đa dạng và phức tạp của khu vực với các nước có cơ cấu kinh tế cũng như trình độ phát triển rất khác nhau. Vì vậy, những ưu tiên phát triển kinh tế cũng như cách đề cập đối với các lĩnh vực hợp tác của các nước thành viên cũng khác nhau.

- Do tính chất không bắt buộc của các cam kết nên trong quá trình thực hiện tự do hoá thương mại và đầu tư, hợp tác kỹ thuật, sẽ nảy sinh những khó khăn và bất đồng.

- Các yếu tố phi kinh tế như văn hoá, lịch sử, môi trường, an ninh... cũng sẽ có những tác động nhất định đến hợp tác kinh tế giữa các nước cũng như tiến trình tự do hoá thương mại và đầu tư ở khu vực.

Những yếu tố này có tác động qua lại với nhau và làm cho APEC tiến triển chậm hơn so với thời gian qua. Do đó vấn đề quan trọng đặt ra hiện nay là các nước thành viên phải nỗ lực hết sức để xây dựng lòng tin trong quá trình hợp tác và thực hiện các cải cách tự nguyện nhằm nâng cao tính hiệu quả của nền kinh tế của mình và từng bước phá bỏ hàng rào quan thuế và phi quan thuế, tiến tới đạt được mục tiêu của Tuyên bố Bogor (1994).

Thứ hai, hiện nay các nước thành viên vẫn chưa hoàn toàn nhất trí về chiều hướng phát triển tiếp theo của APEC.

Mỹ muốn APEC phát triển thành một tổ chức chặt chẽ, thực dụng hơn đáp ứng lợi ích của Mỹ. Đồng thời các nhà lãnh đạo của Mỹ như Tổng thống Clinton và cựu Ngoại trưởng Christopher đều nói đến viễn cảnh một ngày nào đó APEC sẽ không chỉ bao hàm các yếu tố kinh tế mà cả các yếu tố an ninh, chính trị. Quan điểm này trùng hợp với ý tưởng của Australia và Canada.

Trung Quốc, ngược lại công khai nhấn mạnh chỉ duy trì APEC ở mức Diễn đàn, không thể chế hoá APEC thành một tổ chức, không đưa thêm các vấn đề chính trị, an ninh vào nội dung vận động. Trung Quốc đề cao hợp tác kinh tế, kỹ thuật bao gồm phát triển nguồn lực, thiết lập mạng thông tin, hợp tác về tiêu chuẩn hoá và nghiên cứu khoa học... Nhưng Mỹ, Nhật lại không mặn mà với đề nghị này.

Các nước vừa và nhỏ trong APEC về cơ bản cũng không muốn APEC tiến triển quá nhanh cả về cơ cấu tổ chức lẫn nội dung hoạt động vì sợ các ngành công nghiệp non trẻ trong nước không điều chỉnh kịp và không chống đỡ nổi với sự cạnh tranh của các nước phát triển, và vai trò của các nước vừa và nhỏ trong APEC sẽ mờ nhạt đi. Bộ trưởng Công nghiệp và Thương mại Malaysia, Rafidah Aziz tuyên bố: "Kuala Lumper sẽ chống lại các cố gắng biến APEC thành một cơ cấu chính thức, vì như vậy nó sẽ làm suy yếu ASEAN. Vào lúc APEC được thể chế hoá thì ASEAN cũng sẽ biến mất"(4) .

Chính vì sự khác biệt về nhận thức, quan điểm giữa các nước thành viên nên "phương cách APEC" ngày càng được nhấn mạnh trong hoạt động của APEC. Điều đó sẽ làm cho APEC không thể phát triển nhanh như một số nước phát triển của APEC mong muốn.

Thứ ba, các nước thành viên APEC cũng chưa nhất trí được với nhau về việc kết nạp thêm thành viên mới. Theo thoả thuận của Hội nghị lần thứ năm cấp Bộ trưởng của APEC (11/1993) thì việc kết nạp thêm thành viên mới sẽ tạm ngừng trong ba năm kể từ 1995. Đến nay các nước như Mỹ New Zealand, Singapore vẫn chủ trương tiếp tục ngừng kết nạp các thành viên mới để củng cố nội bộ, đẩy mạnh kế hoạch tự do hoá thương mại và đầu tư, nhưng một số nước ASEAN và Hàn Quốc lại chủ trương bãi bỏ quyết định tạm ngừng kết nạp hội viên mới để có thể kết nạp thêm Việt Nam càng sớm càng tốt. Hội nghị cấp cao APEC lần thứ tư ở Philippin (11/1996) đã thoả thuận là trong năm 1997, APEC sẽ tập trung định ra các tiêu chuẩn cụ thể mà các quốc gia cần phải hội đủ khi muốn gia nhập APEC. Các tiêu chuẩn này gồm nhiều điểm, trong đó có 3 điểm chính :

- Vị trí địa lý : phải thuộc khu vực CA-TBD.

- Quyết tâm theo đuổi kinh tế thị trường.

- Cam kết theo đuổi các mục tiêu của Hội nghị cấp cao lần thứ hai ở Bogor và thực hiện các biện pháp cụ thể để đạt mục tiêu đó.

Hội nghị Thượng đỉnh Vancouver (Canada) 1997, sẽ công bố tiêu chuẩn cụ thể ; năm 1998, APEC sẽ xem xét và tuyên bố nước được kết nạp, và các thành viên mới chỉ được tham dự từ năm 1999. Vấn đề hiện nay đang đặt ra là trong số 11 nước đang nộp đơn xin gia nhập APEC thì đến năm 1998 sẽ có bao nhiêu nước được kết nạp, nước nào được kết nạp trước, nước nào sau...

Thứ tư, cần thay đổi cách thức xử lý tranh chấp thương mại của các nước CA-TBD, đặc biệt là của Mỹ.

Những năm gần đây liên tục nổi lên các tranh chấp trong quan hệ thương mại giữa Mỹ và các bạn hàng chủ chốt ở Đông A', Mỹ đang có xu hướng gắn chính sách thương mại với vấn đề tiêu chuẩn lao động, vấn đề bảo vệ môi trường, và vấn đề chính trị như nhân quyền. Hơn nữa Mỹ còn dùng các biện pháp đơn phương như đe doạ sử dụng Điều khoản 301 để gây sức ép với một số nước Đông A' nhằm mở cửa các thị trường này cho hàng hoá của Mỹ.

Xu hướng giải quyết tranh chấp thương mại theo kiểu này sẽ gây nguy cơ gây mất ổn định nghiêm trọng trong quan hệ kinh tế ở CA-TBD. Vì vậy để thúc đẩy hợp tác kinh tế trong nội bộ APEC, các chính phủ APEC cần phải thông qua quy tắc giải quyết sao cho các tranh chấp thương mại không chỉ được thảo luận mà còn phải được giải quyết một cách khách quan, hợp tình hợp lý, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau.

Thứ năm, APEC có thể mở rộng nội dung sang bàn các vấn đề chính trị, an ninh không ?

Khác với châu Âu, đến nay CA-TBD vẫn chưa có cơ chế như Hội nghị an ninh và Hợp tác châu Âu (CSCE) để thảo luận và giải quyết vấn đề chính trị và an ninh ở khu vực. Chính vì vậy, Australia và Mỹ đã đưa ra ý kiến là nên đưa thêm cả vấn đề an ninh vào chương trình nghị sự của APEC. Nhưng cho đến nay, đa số các nước thành viên APEC chưa hưởng ứng với đề nghị này với hai lý do chủ yếu sau :

- Các vấn đề kinh tế trong chương trình nghị sự của APEC đã quá nặng, vì vậy không cần bổ sung thêm các vấn đề an ninh nữa.

- Hiện nay Trung Quốc và Đài Loan đều là thành viên APEC, và do đó Trung Quốc không bao giờ chấp nhận thảo luận các vấn đề an ninh khu vực với sự tham gia của Đài Loan. Nếu APEC chấp nhận thảo luận các vấn đề an ninh thì họ phải gạt hoặc Trung Quốc, hoặc Đài Loan ra ngoài.

Nhận thức được sự cần thiết có một diễn đàn khác để thảo luận các vấn đề an ninh khu vực, năm 1993 các nước ASEAN đã đưa ra một đề nghị thành lập Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) và đã được các nước trong khu vực nhiệt liệt hưởng ứng. Thành viên của ARF hiện nay gồm: 10 nước Đông Nam A', Mỹ, Nhật Bản, Canada, Hàn Quốc, Australia, New Zealand, Nga, Trung Quốc, EU và Â'n Độ. Đến nay ARF đã họp được ba lần.

Tuy nhiên, các nước phương Tây tham gia ARF chưa hài lòng với kết quả và tiến triển của ARF vì nó mới chỉ đề cập đến một số vấn đề an ninh chủ yếu tập trung ở ĐNA, và cũng chưa đi vào giải quyết bất kỳ một vấn đề cụ thể nào. Các nước ASEAN thì cho rằng ở giai đoạn hiện nay ARF đóng vai trò quan trọng trong việc tạo dựng lòng tin, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, và khi nào đạt được mức độ nhất định mới đi vào giải quyết các vấn đề cụ thể. Đây cũng chính là phương cách hoạt động của ASEAN trong suốt thời gian tồn tại của tổ chức này.

Nhìn chung, hiện nay đa số các nước đều hài lòng với sự tồn tại song song của hai diễn đàn: APEC bàn các vấn đề kinh tế, ARF bàn về các vấn đề an ninh. Tuy nhiên, nếu ARF tiếp tục tiến triển chậm, thì không loại trừ khả năng Mỹ và một số nước lớn hơn trong ARF sẽ gây sức ép đưa các vấn đề an ninh vào APEC trong tương lai.

Tóm lại, tương lai của APEC trong 10 đến 20 năm tới vẫn còn là một vấn đề. APEC có thể sẽ tiếp tục phát triển theo phương hướng mà các nhà lãnh đạo APEC đã đạt được tron các Hội nghị Bogor, Osaka và Manila. Theo kịch bản này thì Chương trình hành động tự nguyện của từng thành viên về cơ bản được các thành viên khác chấp nhận, và được đưa vào thực hiện theo mục tiêu của chương trình hành động chung của APEC. Nếu vậy, CA-TBD sẽ trở thành khu vực tự do thương mại mở với không chỉ các nước trong khu vực mà với cả các nước ngoài khu vực vào năm 2020.

Một khả năng khác là APEC vẫn tiến đến đích tự do hoá thương mại và đầu tư ở khu vực vào năm 2020, nhưng không phải bằng chương trình hành động tự nguyện riêng lẻ, mà phải thông qua đàm phán để đạt được thoả thuận chung bắt buộc cho các thành viên.

Nếu quá trình tự do hoá thương mại và đầu tư trong khuôn khổ APEC không tiến triển một cách suôn sẻ, thì có thể các khu vực tự do mậu dịch sẵn có ở khu vực như NAFTA hoặc AFTA sẽ mở rộng ra hoặc sát nhập với nhau để thực hiện mục tiêu này. Chẳng hạn, nếu Mỹ không bằng lòng với quá trình tự do hoá trong APEC, họ sẽ mở rộng khu vực Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) ra bao gồm thêm một số nền kinh tế ở Đông A', hoặc NAFTA sẽ mở rộng ra các nước Nam Mỹ và sát nhập với AFTA.

Cuối cùng, APEC có thể bị chia rẽ, phân liệt và tan vỡ, khả năng này xảy ra khi vì một lý do nào đó đề nghị của Malaysia thành lập Nhóm kinh tế Đông A' (EAEC) trở thành hiện thực, trong khi Mỹ quay về mở rộng NAFTA xuống Nam Mỹ. Khả năng này cũng xảy ra vì lý do an ninh. Chẳng hạn, quan hệ an ninh giữa Trung Quốc và Mỹ xấu đi nghiêm trọng và dẫn đến tình trạng đối đầu ở khu vực.

Trên đây chỉ là một số kịch bản về tương lai của APEC. Qua đó có thể thấy rằng mặc dù APEC đã đạt được những tiến triển đáng kể trong thời gian qua, chúng ta vẫn còn phải thận trọng khi dự đoán về viễn cảnh của APEC trong thời gian một, hai thập kỷ tới. Nhưng dù thế nào đi nữa thì APEC hiện vẫn là một cơ cấu tổ chức quan trọng nhất ở trong khu vực CA-TBD mà các nước lớn, nhỏ đều có tiếng nói nhất định và chia sẻ mục tiêu tự do hoá và hợp tác vì sự thịnh vượng của từng nước và của cả khu vực. Tiến trình APEC sẽ có tác động không nhỏ đến vị trí và vai trò của khu vực CA-TBD trong nền kinh tế và chính trị thế giới ở thế kỷ 21.

II. Những thuận lợi và thách thức đặt ra cho Việt Nam trong tiến trình hội nhập.

Đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã được Đại hội Đảng lần thứ VIII xác định phù hợp thời kỳ phát triển rất quan trọng của kinh tế thế giới. Vì vậy cần gắn chặt quá trình thực hiện đường lối này với xu thế chung, đồng thời ra sức lợi dụng những mặt thuận lợi, tích cực của quá trình hội nhập phục vụ cho công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Theo nghĩa đó, việc ta tham gia ASEAN / AFTA, rồi tiến tới gia nhập APEC, WTO là vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển của Việt Nam. Có thể nói hội nhập khu vực, hội nhập thế giới vừa là mục tiêu chiến lược, vừa là phương tiện, động lực để thực hiện thắng lợi đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đại hội VIII.

Quá trình hội nhập nói chung và hội nhập vào APEC nói riêng đang và sẽ tạo nên nhiều thuận lợi và cơ hội đối với Việt Nam. Thứ nhất, cần xác định rằng tham gia vào APEC (và WTO) không phải là để hưởng ưu đãi đặc biệt. Trên thực tế, những ưu đãi dành cho các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, không nhiều và không mấy hiệu quả (trong trường hợp APEC, các nước đang phát triển được phép hoàn thành tự do hoá thương mại và đầu tư chậm hơn 10 năm so với các nước phát triển). Tham gia vào APEC là tham gia vào thuận lợi chung của cả khu vực, tránh bị phân biệt đối xử. Nếu đứng ngoài xu thế hội nhập thì hậu quả khó mà lường hết được : nền kinh tế sẽ mất sức cạnh tranh, tiếp tục tụt hậu và bị gạt ra ngoài lề nền kinh tế thế giới.

Thứ hai, hội nhập từng bước vào nền kinh tế khu vực AFTA/APEC và thế giới (WTO) là vấn đề rất quan trọng liên quan đến cuộc đấu tranh cho một môi trường chiến lược thuận lợi phục vụ cho phát triển kinh tế ở trong nước. Tham gia APEC còn có ý nghĩa chính trị to lớn vì nó mở ra các cơ hội cho các nhà lãnh đạo cấp cao của khu vực gặp gỡ nhau, trao đổi với nhau về các vấn đề kinh tế và thậm chí về vấn đề chính trị nữa (5) . Do đó tham gia và hội nhập vào APEC không chỉ có ý nghĩa về kinh tế với Việt Nam, mà còn giúp nâng cao uy tín chính trị, tạo vị thế tốt hơn cho Việt Nam trong đàm phán đa phương và song phương.

Thứ ba, như đã phân tích APEC giống WTO ở chỗ đều nhằm thúc đẩy tự do thương mại, nhưng khác ở chỗ hoạt động của APEC mang tính tự nguyện, không có cơ chế giải quyết tranh chấp, phạm vi hợp tác rộng và sâu hơn bao gồm cả hợp tác kinh tế và kỹ thuật; có mục tiêu là tự do hoá thương mại và đầu tư... Chính vì vậy tham gia APEC là bước đi cơ bản để hội nhập WTO. Mỹ triệt để vận dụng cơ chế WTO và APEC để thực hiện mục tiêu của mình : những gì khó đạt được ở APEC thì Mỹ đưa ra WTO ; ngược lại, những gì gặp cản trở ở WTO thì Mỹ sử dụng APEC để thúc đẩy đi đến kết quả. Trung Quốc chưa phải là thành viên WTO nhưng tham gia tích cực trong APEC, và dùng APEC để thúc đẩy việc được chấp nhận vào WTO trong thời gian tới. Đối với Việt Nam, việc tham gia AFTA, APEC, WTO cần phải đặt trong tổng thể liên quan và thúc đẩy lẫn nhau, nhưng lấy các qui định của WTO là cơ sở và định hướng.

Thứ tư, tham gia APEC, Việt Nam có điều kiện mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, hội nhập khu vực, đồng thời kiến tạo được một vị trí thuận lợi trong quá trình phân công lao động quốc tế. Đẩy mạnh hợp tác trong APEC, các doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện tiếp cận được các thị trường lớn trong APEC như Mỹ, Nhật,... một cách bình đẳng hơn, đồng thời cũng có vị trí tốt hơn để mở rộng buôn bán với EU và các khu vực khác. Nhờ đó, các doanh nghiệp Việt Nam có thể nâng cao sức cạnh tranh ngay ở thị trường trong các nước ĐNA.

Thứ năm, so với WTO và AFTA, APEC có ưu thế riêng, đó là : APEC bao gồm cả nội dung hợp tác khoa học kỹ thuật. Trung Quốc triệt để lợi dụng nội dung hợp tác này và thậm chí còn đưa ra đề nghị đẩy mạnh hợp tác về phát triển nguồn lực, mạng thông tin, tiêu chuẩn hoá và nghiên cứu khoa học,... Tham gia vào APEC, Việt Nam có điều kiện tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý từ các nước có trình độ phát triển kinh tế khác nhau, kể cả những nước tiên tiến nhất. Điều này hoàn toàn phù hợp với nhận định của ta là nếu muốn rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước láng giềng ASEAN, Việt Nam không thể chỉ đi một cách tuần tự, mà phải biết "đi tắt, đón đầu" nữa.

Như vậy, tham gia và hội nhập vào APEC, Việt Nam sẽ có được nhiều thuận lợi cơ bản. Tuy nhiên, do xuất phát từ một nền kinh tế lạc hậu, lại mới thực sự thoát khỏi tình trạng cô lập từ năm 1995, cho nên Việt Nam cũng sẽ gặp phải những thách thức to lớn. Ngay những nước phát triển như Canada cũng phải trả giá cho việc tham gia vào NAFTA, APEC và WTO. Họ phải liên tục điều chỉnh trong nhiều năm và cho đến nay vẫn phải tiếp tục điều chỉnh về cơ cấu và thể chế kinh tế cho phù hợp với tiến trình của các thể chế đa phương mà Canada là một thành viên. Các nước ASEAN đều như vậy khi hội nhập vào APEC. Đảng ta cũng nhận thức rõ : "... Các nước đều đứng trước những cơ hội để phát triển. Nhưng do ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường, v.v... thuộc về các nước tư bản chủ nghĩa phát triển và các công ty đa quốc gia, cho nên các nước chậm phát triển đứng trước những thách thức to lớn. Chênh lệch giàu nghèo giữa các nước ngày càng mở rộng. Cuộc cạnh tranh kinh tế, thương mại, khoa học công nghệ diễn ra gay gắt".

Dưới đây xin nêu khái quát một số thách thức mà Việt Nam sẽ phải vượt qua trong quá trình hội nhập vào APEC nói riêng và thế giới nói chung.

Thứ nhất, hiện nay Việt Nam có khoảng cách khá xa về trình độ phát triển so với các nước trong khu vực nên dễ bị rơi vào thế yếu và phải chịu nhiều thua thiệt trong cạnh tranh. Rõ ràng đây là cái giá phải trả, nếu chúng ta không muốn tụt hậu xa hơn nữa về mặt kinh tế.

Thứ hai, cơ chế thị trường ở hầu hết các nước trong APEC và khu vực CA-TBD đã hình thành từ nhiều thập kỷ (ngay Trung Quốc cũng chuyển sang kinh tế thị trường từ 1978), trong khi đó Việt Nam mới chuyển sang kinh tế thị trường trong một thời gian ngắn, cơ chế thị trường còn sơ khai, thị trường thiếu đồng bộ (ta chưa có thị trường chứng khoán), hệ thống chính sách kinh tế chưa ổn định, môi trường pháp luật chưa hoàn thiện. Trong quá trình thực hiện các cam kết đối với AFTA và CEPT, Việt Nam đã phải cố gắng rất nhiều; đương nhiên khi vào APEC, ta còn phải nỗ lực nhiều hơn nữa mới có thể đáp ứng yêu cầu do APEC đề ra.

Thứ ba, vào APEC không phải là chỉ có hợp tác mà còn cạnh tranh với nhau rất quyết liệt. Trình độ phát triển khoa học công nghệ, kinh tế của Việt Nam còn rất thấp, sức cạnh tranh còn rất hạn chế, nên Việt Nam chưa thể thích ứng ngay với tập quán kinh doanh trong khu vực và thế giới. Hơn nữa, cơ cấu kinh tế và thương mại của hầu hết các nước ASEAN đều tương đối giống nhau, và đều coi trọng việc đẩy mạnh xuất khẩu và giành giật các thị trường ở nước ngoài, nên Việt Nam cũng sẽ gặp khó khăn lớn trong việc giành và giữ thị phần của mình cả ở trong lẫn ngoài nước.

Thứ tư, khả năng tiếp nhận các nguồn vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp cũng như công nghệ của Việt Nam còn yếu mặc dù đã có những chuẩn bị từ trước. Tình hình này dẫn đến việc Việt Nam rất dễ bị thua thiệt, lấn át trong làm ăn và do đó có nguy cơ rơi vào nợ chồng chất hoặc trở thành thị trường "xuất khẩu ô nhiễm môi trường" của các nước phát triển hơn.

Thứ năm, quá trình tham gia và thực hiện những cam kết trong ASEAN và AFTA cho thấy Việt Nam còn thiếu nhiều cán bộ giỏi tiếng Anh, có trình độ kinh tế và nghiệp vụ tương xứng với các đồng nghiệp trong khu vực, và do đó phần nào hạn chế cơ hội thuận lợi mà quá trình hội nhập mang lại. Sắp tới đây khi tham gia vào APEC, cũng có nghĩa là ta phải có người tham gia vào các nhóm làm việc, các Uỷ ban, và các cuộc họp định kỳ của APEC để thảo luận và triển khai các quyết định của Hội nghị cấp cao và Hội nghị Bộ trưởng APEC. Đây thực sự là thách thức rất lớn vì số cán bộ đã thiếu thì nay càng phải căng mỏng hơn nữa.

Thêm vào đó, vấn đề tài chính cũng sẽ khó khăn hơn. Khi tham gia ASEAN, hàng năm ta phải tham dự khoảng trên 200 cuộc họp ở các cấp. Tham gia vào APEC, ta cũng sẽ phải tham gia một số lượng các cuộc họp gần ngang trong ASEAN và hoàn toàn do ta tự túc. Việc lựa chọn tham gia cuộc họp nào, không tham gia cuộc họp nào là vấn đề rất quan trọng để vừa giảm bớt căng thẳng về người tham gia, lại vừa giảm bớt chi phí tài chính. Qua tham gia ASEAN ta đã bước đầu có được kinh nghiệm về vấn đề này.

Trên đây là những thách thức thực sự và to lớn, đòi hỏi Việt Nam phải nhanh chóng có biện pháp đồng bộ cả ở cấp vĩ mô và vi mô nhằm đẩy nhanh quá trình hội nhập và tận dụng cơ hội mà nó đem lại cho đất nước. Điều quan trọng trước tiên là cần xây dựng một nhận thức đúng và thống nhất trong nội bộ vấn đề hội nhập và có quyết tâm chính trị của tất cả các cấp lãnh đạo đối với quá trình hội nhập vào khu vực và thế giới, vì hội nhập đã trở thành dòng thác và trào lưu chung, không nước nào có thể đứng ngoài nếu không muốn tụt hậu và bị gạt ra ngoài nền kinh tế thế giới. Đồng thời cũng phải làm sao để giới kinh doanh nhận thức và ủng hộ sự nghiệp này vì chính họ là người sẽ thực hiện và quyết định sự thành bại của hội nhập./.

Tài liệu trích dẫn:

1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 8.- NXB CTQG, H., 1996, tr. 67.

2. 11 nước và lãnh thổ bao gồm: Nga, Việt Nam, Mông Cổ, Â'n Độ, Pakistan, Srilanka, Panama, Peru, Colombia, Ecuador và Macao.

3. 10 nhóm làm việc gồm: - nhóm thúc đẩy buôn bán; - - nhóm đánh giá số liệu thương mại và đầu tư; - nhóm mở rộng đầu tư và chuyển giao công nghệ; - nhóm về phát triển nguồn lực đa phương; - nhóm hợp tác năng lượng khu vực; - nhóm bảo vệ tài nguyên biển; - nhóm về viễn thông; - nhóm về giao thông vận tải; - nhóm về du lịch; - nhóm về đánh cá.

4. Jacarta, 18 January, 1994.

5. Chẳng hạn, trong Hội nghị thượng đỉnh APEC lần II tại Manila, Chủ tịch Giang Trạch Dân của Trung Quốc đã gặp riêng Tổng thống Mỹ Bill Clinton để bàn về quan hệ song phương, trong đó có vấn đề làm thế nào để giảm bớt căng thẳng và tăng cường tiếp xúc, kể cả cấp cao giữa hai nhà nước./.

Cùng chuyên mục