Số 29 - Việt Nam với việc gia nhập Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật

10:43 28/03/2012

Việt Nam với việc gia nhập Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật

Tác giả: Bùi Ngọc Toàn.

Cho đến nay, Việt Nam là một trong rất ít nước trên thế giới còn chưa tham gia bất kỳ điều ước quốc gia đa phương nào về bảo hộ quyền tác giả. Chính vì vậy đã phần nào ảnh hưởng đến tiến trình hội nhập của Việt Nam với nền kinh tế thế giới. Trong các quan hệ kinh tế song phương, đặc biệt là với Mỹ và các nước thuộc Liên minh châu Âu, vấn đề tham gia các điều ước quốc tế về bảo hộ quyền tác giả và trước hết là Công ước Berne thường được các nước đối tác đặt ra như một điều kiện đáng chú ý để đơn giản hóa nội dung đàm phán và ký kết các hiệp định thương mại với Việt Nam.

1. Công ước Berne - một công ước quan trọng nhất về bảo hộ quyền tác giả trên thế giới:

Cùng với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế và khoa học - kỹ thuật ở các nước châu Âu kể từ thế kỷ 19, trong đó phải kể đến sự phát triển của kỹ nghệ in ấn và phổ biến các tác phẩm cũng như sự gia tăng nhu cầu của công chúng trong việc nâng cao tri thức, qua các ấn phẩm văn học, nghệ thuật, vấn đề bảo hộ pháp lý về quyền tác giả ở những nước này ngày càng trở nên bức xúc, thúc đẩy các nước phải ban hành các đạo luật về quyền tác giả. Liên tục trong vòng 200 năm kể từ thế kỷ thứ 18, nhiều nước châu Âu đã ban hành các đạo luật bảo hộ quyền tác giả như Anh (1710), Pháp (1791 và 1793), Đức, Tây Ban Nha (giữa thế kỷ 19)... Mặc dù các tác phẩm văn học nghệ thuật của các nước châu Âu đã được bảo hộ ở trong nước, nhưng họ ngày càng nhận ra rằng những tác phẩm ở nước họ lại thường xuyên bị sao chép và sử dụng không phép ở nước khác và các tác giả không được hưỏng bất cứ quyền lợi nào. Điều đó đã khiến một số nước tiến hành ký kết các thỏa thuận quốc tế song phương để bảo hộ quyền tác giả cho nhau. Tuy vậy trên thực tế, giải pháp này vẫn chưa tỏ ra thích hợp và toàn diện. ý tưởng về một thỏa thuận quốc tế đa phương nhằm bảo hộ quyền tác giả trong phạm vi châu Âu đã được hình thành từ đó. Sau một thời gian thương lượng, đàm phán, ngày 9/9/1886 tại Berne, Thụy Sĩ, 10 nước châu Âu đã thông qua thỏa thuận quốc tế đầu tiên về bảo hộ quyền tác giả : Công ước về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật, được gọi tắt là Công ước Berne. Cùng với Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp năm 1883, Công ước Berne ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trên thế giới với vai trò tiên phong của các nước châu Âu, đồng thời cũng là những nước sáng lập ra Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO).

Trong quá trình tồn tại 112 năm ,Công ước Berne đã trải qua 5 lần xem xét điều chỉnh, sửa đổi và bổ sung cho thích ứng với những tiến bộ của khoa học công nghệ cũng như những đòi hỏi của các nước mới dành được độc lập đang phát triển cần được tiếp cận với các tác phẩm văn hóa, khoa học vì mục tiêu phát triển quốc gia, (năm 1908 tại Berlin, năm 1928 tại Rome, năm 1948 tại Brussels, năm1967 tại Stockholm và năm 1971 tại Paris).

Theo nội dung văn bản Công ước năm 1971, việc bảo hộ dựa trên hai nguyên tắc cơ bản : nguyên tắc đối xử quốc gia và nguyên tắc bảo đảm các quyền tối thiểu. Theo nguyên tắc đối xử quốc gia, tác phẩm của tác giả thuộc một quốc gia thành viên phải được các quốc gia thành viên khác bảo hộ không thấp hơn sự bảo hộ dành cho tác phẩm của tác giả thuộc các quốc gia đó. Còn nguyên tắc bảo đảm quyền tối thiểu lại buộc các quốc gia thành viên phải quy định trong luật pháp của mình mức bảo hộ không được thấp hơn mức độ mà Công ước đã thiết lập.

Theo Công ước, các tác phẩm được bảo hộ một cách tự động, có nghĩa là việc bảo hộ tác phẩm không lệ thuộc vào thủ tục đăng ký, nộp lưu chiểu hay các thủ tục tương tự. Công ước quy định việc bảo hộ được tiến hành là vì lợi ích của bản thân tác giả và những người thừa kế của họ. Riêng đối với tác phẩm điện ảnh, các nước thành viên có thể quy định người trước hết có quyền đối với tác phẩm loại này là nhà sản xuất, tiếp đó mới là đạo diễn, người viết kịch bản hay những người liên quan khác. Những tác giả được bảo hộ theo Công ước phải là công dân hay người thường trú trên lãnh thổ các nước thành viên hoặc tác giả, tuy không thuộc những người nói trên, nhưng lần đầu tiên có tác phẩm được công bố tại một trong các nước thành viên hay cùng một lúc công bố ở cả hai nước thành viên và không phải là thành viên Công ước.

Các tác phẩm được bảo hộ theo Công ước bao gồm mọi sản phẩm gốc thuộc lĩnh vực khoa học và nghệ thuật được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào. Tuy nhiên, mỗi nước thành viên, tùy theo sự lựa chọn, có thể không bảo hộ một số tác phẩm như các văn bản pháp luật và các bản dịch của chúng, văn học nghệ thuật dân gian...

Công ước dành cho tác giả các quyền kinh tế như độc quyền dịch, sao chép dưới bất cứ hình thức nào, theo bất cứ quy trình nào ; quyền trình diễn tác phẩm kịch, nhạc kịch, âm nhạc; quyền phát sóng và truyền đạt tới công chúng ; quyền tạo ra tác phẩm cải biên, chuyển thể... Bên cạnh đó, Công ước cũng thừa nhận sự bảo hộ đối với các quyền tinh thần của tác giả như quyền về danh nghiã tác giả và quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, chống lại bất kỳ biểu hiện nhằm bóp méo, phá hoại xuyên tạc hay hành động xúc phạm tới tác phẩm để làm phương hại đến danh dự, uy tín của tác giả.

Để đảm bảo sự cân bằng thích hợp giữa người nắm quyền tác giả và người sử dụng tác phẩm, Công ước quy định hạn chế một số quyền kinh tế nhất định của tác giả, cho phép sử dụng các tác phẩm mà không cần phải xin phép và trả thù lao cho người nắm quyền tác giả chẳng hạn như trích dẫn và sử dụng tác phẩm dưới hình thức minh họa với mục đích giảng dạy, những ghi chép nhất thời để phát tin... Đặc biệt, nhằm khuyến khích việc tham gia Công ước của những nước mới dành được độc lập đang có những khó khăn trong việc phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội., Công ước còn dành hẳn một phụ lục cho phép các nước đang phát triển trong những điều kiện cụ thể, có thể không cần phải cấp phép đối với trường hợp dịch các tác phẩm nước ngoài để giảng dạy nghiên cứu, học tập, hoặc tái bản và sử dụng tác phẩm nhằm mục đích giáo dục chính quy và không chính quy.

Cho đến nay, trong số các điều ước quốc tế hiện hành về quyền tác giả, Công ước Berne là công ước lâu đời nhất, quan trọng nhất được áp dụng phổ biến nhất trên thế giới. Tính đến tháng 3 năm 1998, đã có tới 130 nước từ tất cả các châu lục và với tất cả các cường quốc trên thế giới như Mỹ, Nga, Anh, Pháp, Đức, Nhật, Trung Quốc gia nhập Công ước Berne. Tại khu vực châu A' hiện chỉ có một vài nước còn nằm ngoài Công ước như Việt Nam, Lào, Campuchia, CHDCND Triều Tiên và Iran.

Nếu lấy năm 1986 là năm kỷ niệm ngày ra đời Công ước Berne làm mốc thời gian, có thể dễ dàng nhận thấy là trong một trăm năm tồn tại, mới chỉ có 76 nước tham gia Công ước, thì chỉ 12 năm sau, số nước thành viên Công ước đã lên đến 130, tăng 54 nước, bằng gần 42% tổng số nước tham gia. Điều đó một mặt chứng tỏ Công ước Berne ngày càng thể hiện tính ưu việt, hấp dẫn của nó trên thực tế bảo hộ quyền tác giả quốc tế. Mặt khác, cũng cho thấy trong những năm gần đây, ý thức coi trọng quyền sở hữu trí tuệ trên thế giới ngày càng được nâng cao. Các quốc gia ngày càng nhận thức được rõ hơn tầm quan trọng của việc bảo hộ quyền tác giả trong hệ thống thương mại mới trên thế giới ; thương mại quốc tế về hàng hóa và dịch vụ được bảo hộ quyền tác giả ngày càng phát triển trên quy mô toàn cầu. Bảo hộ quyền tác giả đã trở thành một yếu tố không thể thiếu được trong quá trình hội nhập và phát triển nền kinh tế thế giới. Với ý nghĩa đó, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã tiếp nhận toàn bộ các Điều từ 1 đến 21, kể cả Phụ lục, trừ Điều 6 bis của Công ước Berne làm cơ sở cho chế độ bảo hộ quyền tác giả trong "Hiệp định về những khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ " ("Hiệp định TRIPS). Vì vậy, trên thực tế số nước áp dụng các chuẩn mực của Công ước Berne đã lên đến gần 160 nước (130 nước thành viên Công ước và khoảng 30 nước không phải là thành viên Công ước, nhưng là thành viên của WTO).

2. Những lợi ích chủ yếu khi tham gia Công ước:

Động lực mạnh mẽ thúc đẩy các quốc gia tham gia ngày càng nhiều vào Công ước Berne là những lợi ích hiển nhiên do chính Công ước mang lại. WIPO đã tổng kết kinh nghiệm thực tế của hơn 110 năm áp dụng, phát triển Công ước và đã rút ra kết luận chung là quyết định gia nhập Công ước Berne của một nước là một hành động vì lợi ích của chính nước đó.

Lợi ích chủ yếu đối với quốc gia nhập Công ước Berne là các tác phẩm của tác giả quốc gia đó tự động được bảo hộ tại tất cả các quốc gia thành viên khác. Từ đó, các tác giả có thể được hưởng những lợi ích kinh tế tại các thị trường rộng lớn hơn nhiều so với thị trường trong nước. Mặt khác, việc gia nhập Công ước Berne có thể sẽ làm cho vị thế cạnh tranh của các tác giả tại thị trường nội địa tăng lên, bởi vì các tác phẩm của tác giả nước ngoài chỉ có thể được đưa vào thị trường các quốc gia thành viên khi được họ cho phép; mặt khác cũng không thể duy trì được lâu trên thị trường các tác phẩm nước ngoài với giá thấp hơn giá nội địa bởi những đòi hỏi của việc ủy quyền phân phối tác phẩm không cho phép như vậy. Đây có thể được xem như là một yếu tố quan trọng đối với việc khuyến khích sáng tạo và phát triển cơ sở hạ tầng của ngành công nghiệp quyền tác giả trong nền kinh tế thị trường của các quốc gia thành viên.

Xét về lợi ích kinh tế vĩ mô, không phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế hay xã hội của một quốc gia, một khi đã gia nhập Công ước Berne thì quốc gia đó trở thành một bộ phận của hệ thống bảo hộ quốc tế về quyền tác giả đối với các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ trong hệ thống thương mại quốc tế. Đây là một điều hết sức quan trọng đối với quá trình giao lưu văn hóa, trao đổi thông tin, công nghệ và các sản phẩm công nghiệp giải trí. Hơn thế nữa, các chuẩn mực thực chất của Công ước Berne được ghi nhận trong Hiệp định TRIPS với tư cách là những chuẩn mực cần thiết tối thiểu cho việc bảo hộ tài sản trí tuệ sẽ đóng một vai trò thiết yếu để các quốc gia có thể đạt được những thành tựu kinh tế quan trọng thông qua việc trao đổi hàng hóa dịch vụ với nước ngoài. Những cam kết quan trọng do hội viên của Liên hiệp Berne đưa ra về việc sẽ áp dụng những biện pháp chính trị cần thiết để bảo hộ quyền và lợi ích của tác giả nước ngoài cũng có thể là những điều kiện đầu tiên bảo đảm cho sự thành công của hợp tác quốc tế, kể cả việc thu hút thêm đầu tư nước ngoài vào các khu vực kinh tế khác ngoài lĩnh vực sở hữu trí tuệ.

3. Những đòi hỏi gia nhập Công ước Berne đối với Việt Nam:

Xuất phát từ những nguyên nhân lịch sử, trong một thời gian dài, các tác phẩm do tác giả Việt Nam sáng tạo không được xem xét đúng mức như những tài sản thuộc sở hữu trí tuệ. Đúng ra mà nói thì trong thời gian đó, tác giả rất ít được quan tâm đến những lợi ích tinh thần và kinh tế. Ngược lại, bản thân tác giả cũng không có những đòi hỏi gì hơn là làm sao cốt để các tác phẩm của họ được công bố, phổ biến trước công chúng càng nhiều càng tốt. Sáng tác của tác giả càng được phổ biến rộng rãi, càng được nhiều người sử dụng thì đó chính là phần thưởng cao quý dành cho họ. Cái chung đặt trên cái riêng là hiện tượng bao trùm suốt một thời của chế độ tập trung bao cấp trước đây và cũng đã được thể hiện tương đối rõ ràng trên phương diện pháp lý về bảo hộ quyền tác gỉa trong thời gian đó. Khái niệm về quyền tác giả lúc bấy giờ chỉ bó hẹp trong phạm vi nhuận bút; người sáng tạo ra tác phẩm không biết mình có quyền và nghĩa vụ gì, còn các tổ chức sử dụng tác phẩm phần đông lại dành cho mình toàn quyền sử dụng tác phẩm mà không cần để ý đến quyền lợi tinh thần và vật chất của tác giả. Suy cho cùng, đấy chính là hậu quả của sự thiếu hụt trong nhận thức về sở hữu trí tuệ được biểu hiện thông qua nội dung các quy định pháp luật về quyền tác giả từng tồn tại trong suốt 41 năm kể từ khi thành lập Nhà nước Dân chủ Nhân dân cho tới ngày 14 tháng 11 năm 1986, tức là ngày Hội đồng Bộ trưởng ban hành nghị định số 142/HĐBT quy định về quyền tác giả, mở đầu cho quá trình đổi mới tư duy về quyền tác giả ở nước ta. Mười năm sau đó, Pháp lệnh quyền tác giả được ban hành để rồi lại bị hủy bỏ bởi sự ra đời của Bộ luật dân sự, trong đó dành hẳn một chương của Phần VI cho các quy định về quyền tác giả.

Có thể thấy chỉ trong vòng 10 năm sau khi Đảng và Nhà nước ta bắt đầu công cuộc đổi mới, chế định pháp lý về quyền tác giả liên tiếp được củng cố và hoàn thiện. So sánh với những quy định của các nước trong khu vực thì chế độ pháp lý về quyền tác giả của Việt Nam cũng có thể đạt được trình độ tương ứng. Tuy vậy, khách quan mà nói thì chuẩn mực bảo hộ quyền tác giả của Việt Nam cũng mới chỉ dừng lại ở trình độ của những nước châu Âu cuối thế kỷ 19, tức là mới chỉ bảo hộ về mặt pháp lý đối với các tác phẩm của các tác giả tại Việt Nam, còn vẫn "mở cửa" để các tác phẩm của nước ngoài được "tự do" đưa vào sử dụng ở Việt Nam, cũng như tác phẩm của tác giả Việt Nam được "tự do" đưa ra và sử dụng ở nước ngoài mà không cần xin phép và trả tiền. Theo cách suy diễn thông thường thì quan hệ hiện hữu giữa Việt Nam và nước ngoài về bảo hộ quyền tác giả đang ở thế cân bằng, thế nhưng nếu xét dưới giác độ kinh tế, thì những lợi ích mà Việt Nam được hưởng do việc sử dụng không trả tiền tác phẩm nước ngoài cao gấp nhiều lần so với Việt Nam bị mất, bởi vì các tác phẩm của Việt Nam dường như rất ít khi bị người nước ngoài đánh cắp bản quyền. Chỉ tính riêng trên lĩnh vực phần mềm máy tính, đã có tới 98 đến 99% chương trình phần mềm của Mỹ hiện đang sử dụng ở Việt Nam đã bị sao chép và sử dụng mà không xin phép, không trả tiền. Do vậy, đối với Mỹ, vấn đề đầu tiên được đặt ra trong tiến trình bình thường hóa quan hệ kinh tế thương mại với Việt Nam là hai nước cần phải thiết lập quan hệ quyền tác giả thông qua việc ký kết một Hiệp định song phương. Mỹ chỉ muốn làm ăn lâu dài với Việt Nam trên cơ sở quyền tác giả của người Mỹ được bảo đảm tại Việt Nam. Mặc dù biết rằng việc thiết lập quan hệ quyền tác giả với Mỹ thì Việt Nam sẽ bị mất nhiều lợi ích kinh tế do việc tự do sử dụng tác phẩm của họ, nhưng xuất phát từ lợi ích lâu dài của quốc gia, vào ngày 27/6/1997, trên cơ sở đề nghị của phía Mỹ, Chính phủ Việt Nam đã chấp thuận cùng Chính phủ Mỹ ký Hiệp định thiết lập quan hệ quyền tác giả. Ngày 23/12/1998, thông qua việc trao đổi công hàm tại Washington, hai bên tuyên bố Hiệp định bắt đầu có hiệu lực. Hiệp định quyền tác giả Việt - Mỹ đã mở ra một bước phát triển mới trong quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước. Tuy nhiên, đó mới chỉ là một giải pháp cụ thể xuất phát từ quan hệ song phương. Trong khi đó, Việt Nam vẫn đang phải chịu những sức ép nặng nề phát sinh từ các điều kiện hội nhập với nền kinh tế thế giới. Trong đó vấn đề bảo hộ quyền tác giả theo những chuẩn mực quốc tế trên quy mô toàn cầu được đặt ra như một điều kiện không thể thiếu. Khách quan mà nói thì việc tham gia Công ước Berne là một yêu cầu tất yếu đối với Việt Nam trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế thế giới.

Thực trạng bảo hộ quyền tác giả ở Việt Nam trong thời gian qua đã cho thấy, quyền tác giả nói chung và đặc biệt là tác giả nước ngoài bị xâm phạm ở mức độ cao. Xuất phát từ đặc thù của Việt Nam là Nhà nước độc quyền về in ấn, xuất bản, phát thanh và truyền hình..., vì vậy, có hiện tượng các cơ quan, tổ chức kinh doanh Nhà nước có thẩm quyền trên lĩnh vực này xâm phạm quyền tác giả của các tổ chức, cá nhân nước ngoài, sao chép và phổ biến các bản sao tác phẩm nước ngoài để sử dụng trong nước. Tiếp đó, một số cá nhân, tổ chức kinh doanh văn hóa phẩm tư nhân lại tiến hành nhân bản những bản sao của các cơ quan, tổ chức kinh doanh nói trên để bán hoặc sử dụng chúng vào mục đích thương mại. Ngoài ra còn phải kể đến tình trạng nhiều tác phẩm nước ngoài được nhập lậu vào Việt Nam để rồi lại được các cá nhân, tổ chức kinh doanh tư nhân nhân bản và phổ biến trên quy mô thương mại với giá rất thấp, cạnh tranh với các tổ chức kinh doanh văn hóa phẩm của Nhà nước và lấn át các tác phẩm của tác giả trong nước.

Như trên đã nêu, việc tự do sử dụng các tác phẩm nước ngoài ở Việt Nam đã mang lại nhiều lợi ích đáng kể cho Việt Nam là một điều không thể phủ nhận được. Xét về khía cạnh kinh tế thì việc sử dụng không xin phép và không trả tiền tác giả đã tạo ra nhiều lợi nhuận cho những tổ chức, cá nhân sản xuất và kinh doanh văn hóa phẩm, bởi các đối tượng này giảm được rất nhiều chi phí đầu vào. Còn xét về khía cạnh văn hóa nghệ thuật và khoa học - công nghệ thì việc tự do khai thác các tác phẩm nước ngoài cũng đã góp phần đa dạng hóa các loại hình văn hóa phẩm, kể cả về hình thức lẫn nội dung, nâng cao đời sống tinh thần trong nhân dân. Do giá bán các tác phẩm nước ngoài được sao chép ở Việt Nam thấp hơn nhiều so với các bản sao chính thức của nước ngoài, nhiều người dân bình thường vẫn có thể mua được để nghiên cứu và thưởng thức. Phải thừa nhận rằng trong thời gian qua, nếu không có hiện tượng vi phạm quyền tác giả nước ngoài một cách "tích cực", thì trình độ dân trí khó có thể đạt được như hiện nay.

Chính xuất phát từ những mối lợi cụ thể do việc tự do sử dụng tác phẩm nước ngoài mang lại mà về mặt nhận thức, hiện nay vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau trong việc xem xét vấn đề Việt Nam có nên ký kết hay tham gia các điều ước quốc tế song phương và đa phương về bảo hộ quyền tác giả hay không. Nhiều người chưa muốn Việt Nam ký kết hoặc tham gia bất kỳ một điều ước quốc tế nào về lĩnh vực quyền tác giả. Lý giải về vấn đề này, những người đó cho rằng bất kỳ một điều ước quốc tế nào về bảo hộ quyền tác giả mà Việt Nam ký kết hay gia nhập cũng đều làm cho Việt Nam bị thiệt hại cả về kinh tế lẫn văn hóa, và khoa học, công nghệ. Họ còn khuyến nghị là Việt Nam nên học tập một số nước ở châu A' như Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan trong những năm 70, 80, cần tiếp tục duy trì chế độ pháp lý hiện trạng để tranh thủ khai thác không mất tiền "chất xám" của nước ngoài nhằm phát triển quốc gia.

Bên cạnh đó cũng có nhiều người, trong đó có cả các quan chức của Nhà nước, giới nghệ sĩ sáng tác văn học, nghệ thuật và đông đảo các tầng lớp nhân dân, mặc dù vẫn thừa nhận những điều lợi kể trên, nhưng lại không ủng hộ ý kiến tiếp tục duy trì tình trạng quyền tác giả như hiện nay. Những người này đều cho rằng, đã đến lúc Việt Nam không nên tiếp tục đi ngược lại xu thế phát triển quốc tế ; Việt Nam không thể phát triển mà không có sự liên hệ gắn bó với cộng đồng quốc tế. Giờ đây, những lợi ích do việc sử dụng một cách tự do quyền tác giả đưa lại chỉ mang tính tạm thời, dựa trên lối chơi bất bình đẳng, xa lạ với luật pháp và thực tiễn quốc tế. Hơn nữa, lối chơi này không phải không gây ra những hậu quả xấu đối với Việt Nam. Điều trước tiên cần phải kể đến là việc tự do sử dụng tác phẩm của nước ngoài sẽ tạo thành một thói quen xấu trên quy mô toàn xã hội : thói quen không tôn trọng và bảo vệ quyền sở hữu của người khác, trái với những nguyên tắc pháp lý cơ bản, với đạo đức và lối sống truyền thống của Việt Nam từ xưa đến nay. Có thể nói, đây chính là mối hiểm họa to lớn đang hàng ngày hàng giờ ngăn cản Việt Nam trên bước đường công nghiệp hóa và hiện đại hóa trong thế kỷ 21. Thứ hai, vì người sử dụng tác phẩm nước ngoài để kinh doanh không phải xin phép và trả tiền cho tác giả, nên họ có thể đơn thuần chỉ chạy theo lợi nhuận mà không lựa chọn tác phẩm cho phù hợp với điều kiện, lối sống, phong tục tập quán của Việt Nam, thậm chí còn góp phần tuyên truyền những loại văn hóa phẩm thiếu lành mạnh hoặc làm phương hại đến lợi ích quốc gia. Hơn nữa, họ không chịu ràng buộc với các điều kiện bảo đảm uy tín cho tác giả nên có thể đưa ra những bảo sao kém chất lượng, gây thiệt hại cho tác giả và cho người tiêu dùng. Việc sử dụng tràn lan các tác phẩm nước ngoài ở Việt Nam đang dẫn đến nguy cơ làm hạn chế, thậm chí có thể làm thui chột hoạt động sáng tạo ở Việt Nam ; tạo cơ hội cho việc hình thành thói xấu sính ngoại, coi thường hoạt động sáng tạo văn hóa, nghệ thuật và khoa học của người Việt Nam.

Qua những phân tích trên đây, có thể thấy vấn đề gia nhập Công ước Berne mặc dù có thể tạo ra những khó khăn trước mắt về kinh tế cho Việt Nam, nhưng đó lại là một yêu cầu quan trọng góp phần thúc đẩy vấn đề thực thi bảo hộ quyền tác giả của Việt Nam ; đẩy mạnh hoạt động sáng tạo của người dân Việt Nam nhằm phát huy nội lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa nước nhà ; tạo điều kiện cho những người sáng tác phổ biến các tác phẩm của Việt Nam ở nhiều nước trên thế giới. Từ đó, nâng cao thêm mức thu nhập của họ như là một yếu tố kích thích vật chất cần thiết, tiếp tục thúc đẩy phát triển năng lực sáng tạo trong cơ chế thị trường xuyên quốc gia về sở hữu trí tuệ.

Qua hàng loạt chủ trương, chính sách và các biện pháp quản lý Nhà nước được triển khai trong một vài năm gần đây đã cho thấy, xu thế ủng hộ việc tham gia Công ước Berne ở Việt Nam đang ngày một gia tăng. Trước tiên là việc Việt Nam và Mỹ ký kết Hiệp định về quyền tác giả. Đây có thể được coi là một bước đột phá về mặt nhận thức của Nhà nước ta trên lĩnh vực này, mở ra một giai đoạn mới trong tiến trình hội nhập quốc tế về bảo hộ quyền tác giả vốn được coi là một bộ phận cấu thành của quyền sở hữu tài sản trí tuệ, loại tài sản vô hình đang ngày càng chiếm tỷ lệ áp đảo trong giá trị của hàng hóa. Tiếp đến là việc Bộ Văn hóa Thông tin, thực hiện chủ trương của Thủ tướng Chính phủ trong năm 1998, đã nghiên cứu, đề xuất vấn đề gia nhập Công ước Berne trình Thủ tướng Chính phủ xem xét và quyết định. Thực tế cho thấy, các cơ quan Nhà nước quan trọng liên quan đến vấn đề bảo hộ quyền tác giả của Việt Nam như Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, Bộ Xây dựng, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Tổng cục Hải quan... đã hoàn toàn tán thành chủ trương gia nhập Công ước Berne. Điều này chứng tỏ thực sự đã có những chuyển biến quyết định về mặt nhận thức, tư tưởng ở cấp độ Chính phủ đối với vấn đề bảo hộ quyền tác giả trong bối cảnh hội nhập quốc tế hướng tới thế kỷ 21. Bên cạnh đó, qua các cuộc hội thảo về vấn đề bảo hộ quyền tác giả do Bộ Văn hóa Thông tin tổ chức đã cho thấy, nhiều lãnh đạo, cán bộ và nhân viên làm việc trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh văn hóa phẩm cũng đã lên tiếng ủng hộ chủ trương tham gia Công ước Berne của Việt Nam vì lợi ích lâu dài và tương lai bền vững của Việt Nam, cũng như bày tỏ quyết tâm sẵn sàng đối phó với những khó khăn sẽ nảy sinh khi Việt Nam gia nhập Công ước này.

Để chuẩn bị cho việc tham gia Công ước Berne, Bộ Văn hóa - Thông tin đang xây dựng và đệ trình lên Chính phủ một kế hoạch sửa đổi, bổ sung một số quy định pháp luật hiện hành về quyền tác giả cho phù hợp với thực tiễn để thi hành Công ước một cách có hiệu quả. Dự thảo Bộ luật hình sự Việt Nam hiện nay cũng đã có những sửa đổi thích ứng, tách tội xâm phạm quyền tác giả, quyền phát minh sáng chế trong Bộ luật hiện hành thành các tội riêng biệt với nhứng tội danh cụ thể, tương ứng với những hình phạt khác nhau, kể cả phạt tù, nhằm ngăn ngừa tình trạng vi phạm quyền tác giả ở mức độ cao như hiện nay. Đồng thời, Bộ Văn hóa Thông tin cũng đã trình Chính phủ dự thảo Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trên lĩnh vực văn hóa, trong đó có cả những hình thức xử phạt đối với các hành vi vi phạm quyền tác giả nhằm tăng cường thêm một bước công tác quản lý Nhà nước trên lĩnh vực này.

Mặt khác, các cơ quan chức năng của Nhà nước cũng đang tiến hành kế hoạch sắp xếp lại những cơ sở sản xuất, kinh doanh văn hóa phẩm quốc doanh và tư nhân để tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động và bảo đảm kiểm soát chặt chẽ hơn tình hình tuân thủ pháp luật về quyền tác giả của các cơ sở đó. Thực hiện Chỉ thị 04 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp cùng phối hợp với các cơ quan chức năng cũng sẽ tiến hành tổ chức các lớp tập huấn về quyền tác giả cho đội ngũ thẩm phán và cán bộ của tòa án nhân dân các cấp, nhằm nâng cao năng lực xét xử các vụ án xâm phạm quyền tác giả có nhân tố nước ngoài.

Một điều cần nhấn mạnh là, việc tham gia Công ước Berne không thể giải quyết được ngay một lúc tất cả các vấn đề về bảo hộ quyền tác giả của Việt Nam, mà mới chỉ là một bước đi thích hợp ban đầu trong tiến trình hiện đại hóa và công nghiệp hóa nước nhà vào thế kỷ 21. Mọi vấn đề dường như đã được đặt ra và đang ở tư thế sẵn sàng khởi động một khi Chính phủ quyết định thông qua Tờ trình của Bộ Văn hóa Thông tin về việc tham gia Công ước Berne vào đầu năm 1999./.

Cùng chuyên mục