Số 35 - Quan hệ Trung - Nga sau chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Putin

07:49 30/03/2012

Quan hệ Trung - Nga sau chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Putin

Tác giả: Đinh Thị Hiền Lương.

Chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Putin trung tuần tháng bảy vừa qua đã thu hút sự chú ý rộng rãi của dư luận quốc tế. Trong bối cảnh Mỹ đang ngày càng gây sức ép đối với Nga và Trung Quốc, việc lãnh đạo hai nước Trung-Nga bắt tay nhau ở Bắc Kinh là một sự kiện đáng quan tâm theo dõi. Hiện nay, một số ý kiến của giới học giả nghiên cứu cho rằng có khả năng hình thành liên minh chiến lược Trung-Nga? Trả lời câu hỏi này sẽ giúp ta hiểu được rõ hơn những biến chuyển phức tạp của tình hình quốc tế cũng như những vận động trong quan hệ giữa các nước lớn, để có những định hướng đúng trong nghiên cứu quan hệ quốc tế. Trong phạm vi của bài viết này, người viết sẽ khái quát lại những diễn biến trong quan hệ Trung-Nga từ khi Liên xô cũ sụp đổ (1991) đến trước chuyến thăm Trung quốc của Tổng thống Putin (7/2000), tiếp đó trên cơ sở đánh giá những bước tiến và những tồn tại trong quan hệ hai nước sau chuyến thăm của Putin và qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu các yếu tố góp phần đưa đến sự ra đời của một liên minh chiến lược nói chung trong quan hệ quốc tế, bài viết đưa ra một số suy nghĩ về vấn đề này.

1) Một vài nét về quan hệ Trung-Nga trước chuyến thăm Trung quốc của Tổng thống Putin:

Sự kết thúc của Chiến tranh lạnh (1989) và tiếp sau đó là sự tan rã của Liên xô thành 15 nước cộng hoà riêng biệt (1991) đánh dấu sự ấm dần lên của hai nước Trung-Nga sau những căng thẳng, xung đột kéo dài hơn ba thập kỷ. Nhu cầu hợp tác để bổ sung cho nhau giữa một nước Nga-nước kế thừa hợp pháp của Liên Xô-suy yếu và tụt dốc liên tục trong vòng một thập kỷ qua và một nước Trung quốc đang cải cách và mở cửa thành công có thể coi là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy quan hệ hai nước thời gian qua. Mặc dù vẫn là một nước lớn về chính trị và quân sự, nắm trong tay kho vũ khí hạt nhân khổng lồ, nhưng kể từ đó đến thời gian gần đây, nước Nga vẫn chìm sâu vào khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng, tình hình chính trị nội bộ tiếp tục xáo trộn cho tới khi Putin lên thay Yelsin, vị thế quốc tế giảm sút, chỉ còn là cường quốc hạng hai trên thế giới.

Trong thời kỳ cầm quyền của Gocbachev và thời kỳ đầu của "thời đại" Yelsin, nước Nga thi hành chính sách ngả mạnh sang phương Tây nhằm tranh thủ sự ủng hộ của Mỹ và phương Tây về vốn và công nghệ, do đó, chưa thực sự coi trọng cải thiện quan hệ với Trung Quốc. Tuy nhiên, do thất vọng về sự giúp đỡ hạn chế và kèm theo quá nhiều điều kiện của các nước phương Tây sau một thời gian đi với các nước này, đồng thời nhận thức được tầm quan trọng của châu A', cụ thể là của Trung Quốc - đối tác quan trọng nhất của Nga ở châu A', từ năm 1994, Nga đã từng bước điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình theo hướng cân bằng hơn, bước đầu coi trọng quan hệ với các đối tác châu A' trong đó, trọng điểm là cải thiện quan hệ Nga-Trung. Từ đó đến nay, quan hệ hai nước từng bước được cải thiện trên nhiều lĩnh vực. Lãnh đạo cấp cao hai nước có các cuộc thăm viếng định kỳ, đặt nền tảng quan trọng cho sự phát triển quan hệ hai nước với những bước ngoặt lớn: Tuyên bố Trung-Nga 9/1994 khẳng định quan hệ đối tác mang tính xây dựng láng giềng hữu hảo, hợp tác cùng có lợi; Tuyên bố Trung-Nga 4/1996 xác định rõ phương hướng mối quan hệ đối tác chiến lược hướng tới thế kỷ 21.

Kể từ khi Putin thay thế vị trí của Yelsin, quan hệ Trung-Nga tiếp tục phát triển theo hướng tích cực. Mặc dù còn phải lo giải quyết nhiều vấn đề đối nội và đối ngoại phức tạp khác, Putin vẫn giành cho Trung Quốc sự quan tâm đặc biệt. Từ đầu năm nay, hai bên có nhiều chuyến thăm của các quan chức cao cấp của cả hai nước: Bộ trưởng quốc phòng Sergeyev và Phó Thủ tướng Klebanov thăm Trung Quốc, Ngoại trưởng Đường Gia Triền thăm Nga, dự kiến hai bên sẽ tiến hành họp định kỳ cấp thủ tướng cuối năm nay tại Bắc Kinh. Bên cạnh đó, Trung-Nga từng bước ổn định mậu dịch song phương, thúc đẩy biên mậu và ký các thoả thuận về cùng hợp tác khai thác các đảo, sông biên giới. Cụ thể là trong chuyến thăm Nga của Thủ tướng Chu Dung Cơ đầu năm ngoái, hai bên đã ký 11 hiệp định hợp tác kinh tế, mậu dịch, khoa học kỹ thuật, giao thông vận tải...

Sự hợp tác Trung-Nga không chỉ giới hạn trong khuôn khổ song phương mà còn mở rộng cơ chế trao đổi ý kiến thường xuyên trên các diễn đàn, tổ chức đa phương như Liên Hợp Quốc, nhóm 5 nước Thượng Hải ... về các vấn đề như Hiệp ước chống tên lửa đạn đạo (ABM), giải pháp về Kosovo, cải cách Liên Hợp Quốc, hợp tác chống chủ nghĩa khủng bố quốc tế...

Mặc dù có những tiến triển lớn trong quan hệ song phương và tiềm năng hợp tác giữa hai nước còn rất lớn, nhưng phải thừa nhận rằng quan hệ Trung-Nga còn tồn tại nhiều vấn đề.

Trước hết, cần chú ý tới một thực tế là trong khi quan hệ chính trị phát triển tốt đẹp thì quan hệ kinh tế-thương mại-đầu tư giữa hai nước gần như không có mấy tiến triển, thậm chí còn có bước thụt lùi. Các con số thống kê cho thấy năm 1992, kim ngạch mậu dịch hai nước đạt trên 7 tỷ USD, năm 1995 tụt xuống còn 5,46 tỷ USD, năm 1998, giảm 10,1% so với mức năm 1997, còn 5,5 tỷ USD. Ngoài ra, còn những khó khăn khác như Nga muốn thanh toán bằng ngoại tệ trong khi Trung Quốc muốn trả bằng hàng hoá, vấn đề biên mậu còn lộn xộn do sự bất ổn trong nước cũng như khó khăn kinh tế của nước Nga đã làm sụt giảm nhanh chóng mậu dịch biên giới vốn chiếm 1/3 kim ngạch thương mại hai nước. Ngoài ra, cả Nga và Trung quốc đều là các nước đang phát triển, do đó hợp tác song phương khó có thể có bước đột phá trong thời gian ngắn vì kinh tế Nga đang trong thời kỳ phục hồi bấp bênh, khoảng 40% nền kinh tế nằm ngoài sự kiểm soát của chính phủ, những gì Trung Quốc cần thì cũng là những thứ Nga thiếu, nhất là sau khi Quốc hội Trung Quốc thông qua chiến lược phát triển miền Tây, Trung Quốc cũng đang thiếu vốn nghiêm trọng. Đây là điều mà các nhà lãnh đạo hai nước phải tính đến khi họ cam kết xây dựng đối tác chiến lược Trung-Nga, bởi vì trên thực tế, mục tiêu 20 tỷ USD kim ngạch mậu dịch hai chiều cho năm 2000 - một con số quá nhỏ bé so với mức 190 tỷ USD giữa Mỹ và Nhật xem ra cũng khó có thể thực hiện được khi mà kim ngạch 6 tháng đầu năm mới chỉ đạt 3,56 tỷ USD.

Thứ hai, thực lực và yêu cầu chiến lược của Trung quốc và Nga tính tới thời điểm này không cho phép hai nước đi quá xa, ảnh hưởng bất lợi đến quan hệ của mỗi nước với Mỹ. Tuy xuất phát từ những tính toán khác nhau nhưng cả Nga và Trung Quốc đều có chủ trương tranh thủ Mỹ, vừa hợp tác vừa đấu tranh với Mỹ, đấu tranh có mức độ, không để dẫn tới đổ vỡ quan hệ. Do đó, dù liên tục chịu sức ép của Mỹ trên một loạt vấn đề, như ở châu Âu, Mỹ mở rộng NATO về phía biên giới Nga, thu hẹp vùng ảnh hưởng của Nga ở Đông Âu, Trung A', đe doạ rút khỏi Hiệp ước ABM nếu Nga không đồng ý với những điều chỉnh do Mỹ đề xuất về các hệ thống phòng thủ chống tên lửa; ở châu A', Mỹ mở rộng phạm vi điều chỉnh của Hiệp ước an ninh Mỹ-Nhật, phê phán Trung Quốc về vấn đề nhân quyền, ngầm ủng hộ phong trào đòi độc lập của Tân Cương, Tây Tạng, phái tàu sân bay bảo vệ Đài Loan trong bối cảnh "bên miệng hố chiến tranh" giữa hai bờ eo biển Đài Loan tháng 3/1996... nhưng cả Nga và Trung quốc đều không dám làm căng với Mỹ, phản đối nhưng có mức độ và ở một mức nào đó đều phải có những nhân nhượng nhất định với Mỹ.

Ngoài ra, giữa Trung Quốc và Nga còn tồn tại nhiều bất đồng, nghi kỵ không dễ vượt qua như tranh chấp chủ quyền ba hòn đảo ở vùng Viễn Đông, vấn đề hơn một triệu người nhập cư trái phép vào Nga chưa được giải quyết.

Những lý do nêu trên cho thấy mặc dù trong thời gian qua, quan hệ Trung-Nga có ấm lên và ở một khía cạnh nào đó có thể đạt đến cái gọi là "quan hệ đối tác chiến lược", nhưng chưa đủ cơ sở cần thiết để hình thành một liên minh chiến lược. Bởi vì, theo định nghĩa cơ bản nhất trong quan hệ quốc tế, một liên minh chiến lược ra đời trên cơ sở cùng chung mục tiêu và có đủ phương tiện chống lại một thế lực thù địch nổi lên đe doạ lợi ích sống còn của các bên liên quan. Mỹ không những không bị coi là "thế lực thù địch" mà còn được coi là đối tác quan trọng nhất của Nga và Trung Quốc. Hơn nữa, thực tế cho thấy cả Nga và Trung Quốc đều không có đủ lực lượng cần thiết để hình thành một liên minh.

Tuy khả năng hình thành liên minh Trung-Nga là rất nhỏ, nhưng không có nghĩa là không có, nhất là trong khi tình hình đang diễn biến đáng lo ngại như hiện nay. Sau sự kiện Kosovo, Mỹ càng ngày càng thao túng nền chính trị quốc tế, muốn giành quyền quyết định các vấn đề quốc tế, từng bước gạt bỏ vai trò của Liên Hợp Quốc và các tổ chức quốc tế khác. Việc Mỹ chuyển chiến lược của NATO từ phòng thủ sang tiến công, tăng cường bán vũ khí cho Đài Loan trong khi quan hệ hai bờ đang "nóng" lên, ra sức tăng cường vai trò và ảnh hưởng ở khu vực Châu A'-Thái Bình Dương bằng cách củng cố quan hệ quân sự với các nước đồng minh cũ như Nhật Bản, Hàn Quốc, Philipin, Thái Lan, mặt khác tìm cách tập hợp lực lượng ở khu vực có lợi cho Mỹ như gia tăng hợp tác quân sự với các nước trong khu vực, cải thiện quan hệ với Â'n Độ, đồng thời tiếp tục lợi dụng vấn đề dân chủ nhân quyền, sắc tộc, tôn giáo để gây sức ép và can thiệp vào công việc nội bộ của các nước, trong đó có vấn đề Đài Loan, Tây Tạng của Trung Quốc và Trêsnia của Nga ... đã làm quan hệ Mỹ-Nga, Mỹ-Trung xấu đi nhanh chóng. Trong bối cảnh đó, chuyến thăm Trung quốc của Tổng thống Putin không khỏi khiến cho dư luận quan tâm đặt ra câu hỏi: Phải chăng đã đến lúc hình thành một liên minh chiến lược giữa hai nước để đối phó với bá quyền Mỹ? Trong thời gian ở Bắc Kinh, lãnh đạo hai nước đã ký kết được 5 văn kiện, đáng chú ý là Tuyên ngôn Bắc Kinh và Tuyên bố Trung-Nga về vấn đề chống tên lửa đạn đạo. Liệu đây có phải là tuyên bố đánh dấu sự ra đời của một liên minh chống Mỹ trên thực tế hay không? Chuyến thăm của Tổng thống Putin vừa có ý nghĩa tiếp trong chính sách của Nga đối với Trung quốc, vừa mở ra một trang mới trong quan hệ Nga-Trung.

2) Một bước tiến mới trong quan hệ Trung-Nga sau chuyến thăm của Tổng thống Putin:

Chuyến thăm Trung Quốc của Putin đạt kết quả cả về chính trị và kinh tế, nhưng kết quả chính trị nổi bật hơn, thể hiện ở 4 điểm sau:

Một là, hai bên khẳng định lại và nâng cao hơn khuôn khổ quan hệ bạn bè hợp tác chiến lược đã có từ thời Yelsin, bày tỏ quyết tâm đưa quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước phát triển lên một tầm cao mới ổn định và lâu dài. Hai bên còn thoả thuận sẽ sớm đàm phán về Hiệp ước láng giềng hợp tác hữu nghị Trung-Nga.

Về quan hệ quân sự, một điều thấy rõ nhất là trước đây Nga dè dặt trong vấn đề hợp tác khoa học kỹ thuật quân sự thì nay vấn đề này đã được đề cập trong "Tuyên bố Bắc Kinh", cho thấy quan hệ quân sự hai nước đã được tăng cường thêm một bước. Có tin Nga sẽ bán cho Trung Quốc hệ thống rađa phát hiện sớm tên lửa trị giá 250 triệu USD mà Israel bị Mỹ ép phải huỷ bỏ hợp đồng với Trung Quốc. Chuyến thăm của Putin khẳng định chính sách phát triển quan hệ với Trung Quốc tiếp tục là một ưu tiên đối ngoại của chính quyền Putin.

Hai là, về vấn đề chống tên lửa đạn đạo - vấn đề trọng tâm của chuyến thăm lần này, hai bên nhất trí lập trường phản đối kế hoạch TMD và NMD của Mỹ và để ngỏ khả năng hợp tác ngăn chặn các kế hoạch đó. Tuyên bố chung Trung-Nga chống lại kế hoạch TMD, NMD với lời lẽ gay gắt hơn nhiều so với lời lẽ trước đây của Nga và Trung Quốc tại Dushanbe. Dư luận cho rằng việc hai bên ra hai tuyên bố chung có nội dung phê phán đích danh Mỹ và chuẩn bị đàm phán về Hiệp ước láng giềng hữu nghị rõ ràng là một tín hiệu răn đe Mỹ và cảnh báo về khả năng hình thành một liên minh thực tế (de facto) Trung-Nga nếu Mỹ gây sức ép quá mức đối với hai nước này.

Ba là, về vấn đề Đài Loan và Tresnia, hai bên nhất trí lập trường phản đối Mỹ và phương Tây can thiệp vào công việc nội bộ, bày tỏ kiên quyết ủng hộ lẫn nhau: Nga nhắc lại lập trường nguyên tắc lâu nay về vấn đề Đài Loan và Trung Quốc ủng hộ Nga về vấn đề Trêsnia. Điểm mới lần này là cả Nga và Trung Quốc đều cho rằng vấn đề Đài Loan và vấn đề Trêsnia là vấn đề nội bộ của hai nước, không cho phép nước ngoài can thiệp, rõ ràng là ám chỉ Mỹ và phương Tây, nêu rõ Trung-Nga quyết tâm áp dụng những biện pháp có hiệu quả để trừng trị mọi âm mưu và hành động chia cắt đất nước, phản đối chủ nghĩa chia rẽ dân tộc, chủ nghĩa khủng bố quốc tế, chủ nghĩa tôn giáo cực đoan.

Bốn là, kết quả về kinh tế khiêm tốn hơn nhưng cũng có bước đẩy mạnh hơn so với thời Yelsin. Hai bên ký thêm một số hiệp định, tỏ ý coi trọng và hứa hẹn quyết tâm tìm biện pháp tăng cường quan hệ kinh tế-thương mại.

3) Quan hệ đối tác chiến lược Trung-Nga được khẳng định và nâng cao một bước:

Nhìn vào những kết quả trên, có thể thấy cả Trung Quốc và Nga về cơ bản đã đạt được mục đích của mình. Điểm đồng lớn nhất là hai bên đều lo ngại về bá quyền của Mỹ, lo ngại bị gạt khỏi các quyết định về các vấn đề quốc tế quan trọng, cả Trung quốc và Nga đều cần có sự nhất trí cao trong các nghị quyết của Liên Hợp Quốc về cải cách tổ chức này theo hướng tăng thêm quyền lực cho Hội đồng bảo an tại khoá họp Thiên niên kỷ sẽ diễn ra sau chuyến thăm này. Tuy nhiên theo nhìn nhận của cả Nga và Trung quốc, hiện nay Mỹ chưa phải là mối đe doạ đối với hai nước này. Trên thực tế, mặc dù cả Nga và Trung Quốc đều lo ngại Mỹ nhưng đều cần và coi trọng quan hệ với Mỹ. Do đó, Trung-Nga cần hợp tác nhưng chưa cần thiết phải liên minh, hai nước chủ trương dùng ý đồ liên minh Nga-Trung để đòi Oasinhton có những nhân nhượng trong đàm phán Mỹ-Nga, Mỹ-Trung, nói cách khác Trung-Nga bắt tay nhau là để bắt tay với Mỹ. Do đó, trong Tuyên bố chung lần này tuy lời lẽ phản đối Mỹ rất gay gắt, răn đe Mỹ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm đối với mọi hậu quả, nói hai nước sẽ hợp tác chặt chẽ nhưng không đưa ra các biện pháp đối phó cụ thể trong trường hợp Mỹ vẫn xúc tiến TMD và NMD. Hai bên cũng nói rõ Hiệp ước láng giềng hữu nghị sắp tới sẽ không mang tính chất liên minh, chỉ nêu "Đối tác chiến lược toàn diện", nhấn mạnh việc phát triển trục Matxcơva-Bắc Kinh là "một dạng quan hệ hợp tác mới chứ không phải là một liên minh, không đối đầu và không nhằm vào bất kỳ nước thứ ba nào".

Tóm lại, nhân tố Mỹ đã góp phần đẩy Trung-Nga lại gần nhau hơn, nhưng không trở thành đồng minh của nhau như lo ngại của một chuyên gia Mỹ về Trung quốc cho rằng "quan hệ Trung-Nga đang ngày càng mật thiết hơn trên cơ sở xu hướng chống Mỹ ngày càng tăng và có nhiều khả năng hai nước này sẽ liên kết lại trên một mặt trận thống nhất chống lại Mỹ".

Tỏ rõ quyết tâm đoàn kết và hợp tác chống lại bá quyền Mỹ, một mặt hai nước Trung-Nga đã đề cao được vị trí và vai trò nước lớn của mình ở khu vực châu A'-Thái Bình Dương, không cho phép Mỹ thao túng quan hệ quốc tế, mặt khác cả Nga và Trung Quốc đều bảo vệ được ở mức cao nhất lợi ích quốc gia của mình trong các vấn đề quân sự và an ninh, chống lại sự can thiệp của Mỹ và phương Tây vào công việc nội bộ của Nga và Trung quốc, đặc biệt trong vấn đề Trêsnia và vấn đề Đài Loan. Tiến hành chuyến thăm Trung Quốc lần này, Tổng thống Putin muốn tranh thủ sự ủng hộ ngầm hoặc công khai của Trung Quốc để giảm bớt sức ép quốc tế đối với Nga trong chiến dịch thanh trừng khủng bố ở Trêsnia. Cũng có nhiều học giả cho rằng Putin phải đến Bắc Kinh do sức ép của việc Mỹ đe doạ rút khỏi ABM nếu Nga không chịu sửa đổi hiệp ước này. Họ lập luận rằng các hệ thống phòng thủ tên lửa của Mỹ về lâu dài sẽ đe doạ an ninh của Nga do nó sẽ tạo khoảng cách ngày càng lớn giữa Nga và Mỹ về vũ khí chiến lược, chấm hết hy vọng trở lại vũ đài chính trị thế giới với tư cách cường quốc ngang hàng với Mỹ và phương Tây của Nga; họ cho rằng sửa đổi ABM-biểu tượng của cân bằng chiến lược Nga-Mỹ trong Chiến tranh lạnh đồng nghĩa với việc Nga chấp nhận thế giới một cực do Mỹ lãnh đạo.

Những lập luận này, xét ở một khía cạnh nào đó, là có cơ sở, nhưng thực tế cho thấy TMD và NMD mặc dù được coi là vấn đề chính trong chương trình hội đàm giữa Putin với các nhà lãnh đạo Trung Quốc, nhưng chưa nghiêm trọng đến mức đe doạ an ninh của Nga. "Ngoại giao sáng kiến" của Nga gần đây đã có những kết quả nhất định như việc Duma quốc gia Nga thông qua START-II và cả hai viện của Nga phê chuẩn Hiệp ước cấm thử toàn diện (CTBT). Ngoài ra có tin Nga đề nghị hợp tác với châu Âu, và thậm chí với Trung Quốc, cùng triển khai các hệ thống phòng thủ tên lửa chống lại kế hoạch TMD, NMD của Mỹ... Đây là những sức ép không nhỏ đối với chính quyền Clinton trong vấn đề kiểm soát vũ khí chiến lược và cấm phổ biến vũ khí hạt nhân. Trong khi Nga không đặt nặng vấn đề TMD, NMD thì đối với Trung quốc, tranh thủ sự ủng hộ của Putin để gây sức ép với Mỹ, buộc Mỹ từ bỏ ý đồ triển khai các hệ thống tên lửa, đặc biệt là TMD là một trong những mục tiêu chính của Trung Quốc. Trung Quốc lo ngại rằng nếu triển khai thành công những hệ thống này, Mỹ sẽ vô hiệu hoá khả năng răn đe hạt nhân của Trung Quốc, buộc Trung Quốc phải tăng cường chi phí quân sự, chạy đua vũ trang với Mỹ. Điều này sẽ cản trở kế hoạch "4 Hiện đại hoá" của Trung Quốc, thậm chí có thể làm cho Trung Quốc kiệt sức như Nga trong thời kỳ Chiến tranh lạnh. Một hệ lụy không mong muốn nữa của việc Mỹ triển khai TMD ở châu A'-Thái Bình Dương là khi Mỹ chiếm ưu thế hạt nhân tuyệt đối ở khu vực, che chắn cho quân đội Mỹ cũng như các đồng minh của Mỹ ở đây, bao gồm cả Đài Loan, một cách hữu hiệu bằng những lá chắn tên lửa, thì Trung Quốc cũng mất luôn hy vọng thống nhất Đài Loan bằng vũ lực, nguy cơ Đài Loan tuyên bố độc lập là có thể dự đoán được.

Bên cạnh nhân tố Mỹ, lợi ích hợp tác Trung-Nga là một nhân tố quan trọng khác thúc đẩy mạnh mẽ sự xích lại của hai nước khổng lồ này. Như trên đã đề cập, mặc dù quan hệ Trung-Nga từ thời Yelsin đã xác định khuôn khổ đối tác chiến lược và nhìn chung phát triển ổn định, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Những giới hạn đó đã đặt ra những thách thức cho Putin trước chuyến thăm Trung Quốc. Do đó, trong chuyến thăm Bắc Kinh lần này, Putin muốn tuyên bố chính sách của chính quyền mới đối với Trung Quốc, thúc đẩy quan hệ hợp tác đi vào thực chất, chú trọng nhiều hơn đến hợp tác kinh tế-thương mại song phương. Nga muốn tranh thủ thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại với Trung Quốc để giảm bớt khó khăn trong nước, đồng thời để tránh không quá lệ thuộc vào Mỹ và Phương Tây. Hiện nay, Trung Quốc là bạn hàng lớn nhất của Nga về dầu thô, khí đốt và vũ khí. Vũ khí là mặt hàng xuất khẩu thu được nhiều ngoại tệ nhất, giúp Nga dần dần thoát ra khỏi gánh nặng nợ nần khổng lồ. Theo lời Phó thủ tướng Ilya Klebanov, Nga sẽ tăng gấp đôi số lượng vũ khí bán cho Trung Quốc, trung bình một năm, Nga đã bán cho Trung Quốc số vũ khí trị giá hơn 1 tỷ USD. Về phần mình, Trung Quốc đang đẩy nhanh tiến độ hiện đại hoá quân đội, do đó có nhu cầu rất lớn đối với các loại vũ khí hiện đại của Nga, cần tranh thủ khoa học kỹ thuật công nghệ cao của Nga. Đây là một vấn đề hết sức cấp bách đối với Trung Quốc trong tình hình căng thẳng đang leo thang ở khu vực eo biển Đài Loan. Về an ninh-quốc phòng, hợp tác Trung-Nga trong lĩnh vực này có ý nghĩa với cả hai nước láng giềng có chung đường biên giới dài nhất thế giới này, tạo môi trường quốc tế thuận lợi để hai nước tập trung nguồn lực vào phát triển kinh tế, đồng thời hợp tác để đối phó có hiệu quả với các thách thức an ninh ở Trung A'. Đặc biệt đối với Trung Quốc, chính sách coi trọng an ninh ngoại biên của Putin trùng khớp với chính sách ngoại giao quân sự láng giềng hữu nghị Trung Quốc đang triển khai để cải thiện quan hệ với các nước trong vùng, xoá bỏ mặc cảm về "mối đe doạ Trung quốc" và củng cố an ninh tại các khu vực sát sườn của Trung Quốc, giúp Trung Quốc tranh thủ xúc tiến giải quyết dứt điểm vấn đề biên giới giữa hai nước và yên tâm thực hiện kế hoạch cắt giảm nửa triệu quân trước năm 2000.

Tất cả các biểu hiện trên cho thấy trước mắt chưa có khả năng Trung-Nga lập thành liên minh chống Mỹ, mà chỉ khẳng định lại và nâng thêm một bước quan hệ đối tác chiến lược đã thoả thuận trước đó. Hiện nay và có thể trong tương lai, cả hai bên đều không muốn đi xa hơn ngoài những lời phản đối gay gắt nhằm vào Mỹ. Cả Trung Quốc và Nga đều không muốn lặp lại Chiến tranh lạnh, đặc biệt là Trung Quốc, rất lạnh nhạt với đề nghị của Ngoại trưởng Primakov về liên minh tay ba Nga-Trung-Â'n đối kháng với liên minh Mỹ-Nhật. Có thể thấy, do nhận thức được những giới hạn của cặp quan hệ này, dư luận Nhật Bản, Tây Âu có phản ứng vừa phải với chuyến thăm của Putin. Riêng đối với Mỹ, Mỹ phản ứng với thái độ thận trọng, tránh đẩy Trung-Nga xích lại gần nhau thêm. Quyết định trao cho Trung Quốc quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) của chính quyền Clinton và quyết định hồi đầu tháng 9 của Tổng thống Clinton hoãn triển khai NMD ít nhiều cũng xuất phát từ những tính toán này của Mỹ.

Cuối cùng, như đã phân tích ở trên, sự phát triển quan hệ Trung-Nga có những hạn chế nhất định, xét trên tất cả các mặt kinh tế, an ninh, chính trị. Thực tế đã chỉ ra rằng những thoả thuận đạt được giữa lãnh đạo ở cấp cao nhất đòi hỏi nỗ lực rất lớn của hai bên để triển khai trong thực tế. Hiện nay, trong tình hình kinh tế và nội bộ còn nhiều khó khăn, Nga vẫn coi trọng quan hệ với Mỹ và phương Tây nhằm tranh thủ giúp đỡ về kinh tế. Hơn nữa, xét về mặt chiến lược, trong khi Nga vẫn coi châu Âu là trọng điểm thì Trung Quốc lại coi châu A'-Thái Bình Dương là trọng điểm, do đó, Nga coi trọng hàn gắn quan hệ giữa Nga với phương Tây sau Kosovo. Ngay sau khi cầm quyền Putin đã không thăm Trung Quốc ngay như đã tuyên bố mà lại đón Tổng thống Mỹ và thăm một số nước Tây Âu trước.

Đối với cả hai nước Nga và Trung Quốc, lợi ích chiến lược của họ là phải duy trì quan hệ ổn định với Mỹ, tranh thủ Mỹ để có thể vươn lên trở thành những cực quyền lực trong một trật tự thế giới mới đa cực. Kịch bản Trung-Nga liên minh, đối đầu với Mỹ không chỉ tạo nguy cơ lớn đối với an ninh, ổn định và sự phát triển thịnh vượng của khu vực và thế giới mà còn đe doạ đến lợi ích quốc gia của cả hai nước. Tóm lại, liên minh Trung-Nga là một khả năng khó có thể xảy ra, cặp quan hệ này thời gian tới sẽ tiếp tục phát triển theo chiều hướng thuận, khả năng sẽ có những đột phá lớn, đi vào chiều sâu và theo hướng toàn diện hơn./.

Cùng chuyên mục