Số 35 - Ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh

12:07 29/03/2012

Ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh

Tác giả: Lê Khả Phiêu.

Trích phát biểu của đồng chí Lê Khả Phiêu Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Hội thảo Khoa học : "Ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh" ngày 15 tháng 8 năm 2000.

Trong những ngày này, trên khắp đất nước ta, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tưng bừng kỷ niệm 55 năm Cách mạng Tháng 8 và Quốc khánh 2/9. Chúng ta hãy cùng nhau sống lại, hồi tưởng những ngày tháng hào hùng đó của đất Việt. Vào ngày tháng sôi sục ấy của Cách mạng cũng chính là ngày tháng khai sinh của ngành ngoại giao Việt Nam. Hôm nay, tôi rất vui mừng tới dự cuộc hội thảo này, cùng các đồng chí và các bạn chúc mừng toàn thể cán bộ, nhân viên, những nhà ngoại giao Việt Nam, những người con trung thành của Đảng và Tổ quốc. Nhưng điều quan trọng hơn là vào thời gian chúng ta đang sống, bước chuyển tiếp thế kỷ và thiên niên kỷ, chúng ta hãy cùng nhau nhìn lại chặng đường 55 năm qua của ngành ngoại giao, để tự hào về thành tích, để đánh giá đúng hơn mình, để ý thức được đầy đủ hơn về nhiệm vụ và trọng trách trong những chặng đường tới.

Mùa thu Cách mạng đã mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam, đồng thời mở ra kỷ nguyên mà ngoại giao Việt Nam tạo dựng và định hình những đặc thù của nó, những bản sắc của một nền ngoại giao trong thời đại mang tên Bác Hồ kính yêu. Thời đại Hồ Chí Minh là cái nôi sinh thành nuôi dưỡng nền ngoại giao hiện đại Việt Nam không ngừng lớn mạnh phát triển đã đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, xứng đáng với lòng tin cậy và mong đợi của nhân dân.

55 năm qua là cả một thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của ngoại giao Việt Nam. Dù ở giai đoạn nào của cách mạng, dù khó khăn gian nguy đến mấy,, dù thế và lực có thế nào đi chăng nữa thì ngoại giao Việt Nam vẫn luôn là một mái chèo góp phần đưa con thuyền đất nước vượt thác ghềnh và các vùng nước xoáy của lịch sử, luôn là một sức đẩy góp phần vào cuộc trường chinh vĩ đại của dân tộc đi hết thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Những đóng góp của ngành ngoại giao vào sự nghiệp chung của dân tộc rất to lớn và quan trọng. Thành tích của ngoại giao Việt Nam không thể tách rời những chiến công và kỳ tích của dân tộc cũng như những cống hiến và phấn đấu của biết bao cán bộ, nhân viên ngoại giao. Nhìn lại chặng đường đã qua, các đồng chí cán bộ, nhân viên làm công tác ngoại giao có thể tự hào về thành quả lao động của mình, về bàn tay và khối óc của các đồng chí đã góp phần xứng đáng làm nên những chiến công và kỳ tích nói trên. Đảng, Nhà nước và nhân dân đánh giá cao những đóng góp của ngành ngoại giao. Năm 1995, nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập ngành, ngành ngoại giao đã vinh dự được Nhà nước trao tặng Huân chương Sao vàng và hôm nay, tôi một lần nữa thay mặt Đảng và Nhà nước biểu dương công lao của ngành ngoại giao.

Ngoại giao đã được cha ông ta thực hiện từ hàng ngàn năm nay. Nước ta là một nước nhỏ, nằm ở vị trí địa - chính trị đặc biệt nên muốn quốc thái dân an thì cốt ở bang giao. Ngoại giao luôn xuất phát từ thực trạng thế và lực của đất nước để xử lý các mối quan hệ với ngoại bang nhằm đảm bảo lợi ích tốt nhất cho đất nước. Ngoại giao là vũ khí mà ông cha ta đã khôn khéo tận dụng để tạo dựng môi trường chung sống hòa bình với ngoại bang, duy trì và cứu vãn hòa bình trước mọi cuộc giao tranh và gìn giữ hòa bình sau đó. Vì thế, ngoại giao Việt Nam đã có bề dày và chiều sâu lịch sử có truyền thống rất đáng để tự hào và trân trọng. Nhưng chỉ thời đại Hồ Chí Minh mới chắp cánh cho ngoại giao Việt Nam bay cao, bay xa hướng tới tầm vóc thời đại.

Việt Nam có truyền thống văn hiến lâu đời. Truyền thống đó là di sản được cha ông chắt chiu gây dựng và truyền lại cho đời sau, mang bản sắc con người Việt Nam, cũng là một nền tảng tinh thần của nền ngoại giao Việt Nam. Vì thế, văn hóa Việt Nam hiện hữu trong nền ngoại giao Việt Nam, trước hết trong bản chất và nội dung phương thức hoạt động và phong thái của nó. ấy là tính hòa hiếu và nhân nghĩa, là bản chất hòa bình và khoan dung, là sự ứng xử tinh tế, linh hoạt và mềm dẻo nhưng kiên định nguyên tắc "dĩ bất biến, ứng vạn biến" phục vụ cho lợi ích của dân tộc, coi trọng đạo lý, dùng trí tuệ và bản lĩnh để bảo vệ và thực hiện lợi ích quốc gia, mở rộng hợp tác quốc tế mà vẫn giữ được bản sắc dân tộc, tư thế đất nước và phẩm giá con người Việt Nam.

Từ cội nguồn truyền thống văn hiến ấy, ngoại giao Việt Nam luôn luôn giương cao ngọn cờ hòa bình và chính nghĩa. Hòa bình và chính nghĩa chính là vũ khí đạo lý sắc bén để ngoại giao Việt Nam thành công trong việc tập hợp lực lượng, cô lập, và làm suy yếu, phân hóa kẻ thù, tạo dựng đồng minh, tranh thủ dư luận quốc tế, có sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi ở trong nước cũng như trên thế giới cho sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do và thống nhất đất nước trước đây cũng như cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay. Nhân tố này được phát huy cao độ trong tư tưởng Hồ Chí Minh và được ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển một cách triệt để, sáng tạo trong việc triển khai thực hiện đường lối chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, trong hoạt động thực tiễn của mình và đặc biệt trong mối quan hệ giữa độc lập tự chủ, tự lập tự cường với đoàn kết quốc tế và hợp tác quốc tế.

Tư tưởng Hồ Chí Minh đã kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, kết hợp hài hòa giữa truyền thống và giá trị văn hóa phương Đông và phương Tây, đồng thời còn có sự kết hợp thiên tài truyền thống vẻ vang của cha ông ta với thực tiễn rất sinh động của đất nước ta, của khu vực và thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, gắn cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội và thực hiện sự gắn kết ấy bằng các hoạt động ngoại giao tài tình với sắc thái riêng của dân tộc Việt Nam. Người chủ trương luôn luôn tăng cường đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế. Khi người nói "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công" là nói đến sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc trong một đất nước, nói đến sức mạnh của sự đoàn kết, nhất trí trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, trong phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, và đề cập đến sự cần thiết phải có được khối đoàn kết ấy. Cách mạng Việt Nam nói chung và ngoại giao Việt Nam nói riêng luôn quán triệt tư tưởng lớn đó và góp phần tăng cường sự đoàn kết, nhất trí ấy.

Tư tưởng nói trên của Người thể hiện trong quan điểm thêm bạn, bớt thù: "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không thù oán với ai". (Trả lời phỏng vấn nhà báo Mỹ Ely Maysi, 9/1947, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, trang 593) và nếu không được lòng họ 100% thì cũng không được làm mất lòng ai 100%, (Bài nói chuyện của Hồ Chủ tịch tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ V, ngày 16-3-1966) thể hiện ở tính nhân văn trong nội dung chính sách đối ngoại và hàm lượng văn hóa trong phương cách thực hiện chính sách đối ngoại. Bản chất thủy chung với bạn bè quốc tế trong mọi thời kỳ và bối cảnh của ngoại giao Việt Nam cũng có cùng cội nguồn đó. Vấn đề này hiện nay có ý nghĩa to lớn và tính thời sự mạnh mẽ.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao gắn liền với phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh. Phong cách ngoại giao ấy là phép ứng xử có trí tuệ trên cơ sở "mình biết người" và sự thấu hiểu sâu sắc về đất nước Việt Nam và thế giới. Phong cách ngoại giao ấy kết hợp được những tinh túy của văn hóa Việt Nam với những tinh hoa của các dân tộc khác dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê nin. Phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh là linh hoạt về sách lược và sáng tạo trong "ứng vạn biến", xử lý hài hòa giữa cái chung và cái riêng, giữa yếu tố dân tộc và yếu tố quốc tế, lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế đồng thời biết phát huy sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại và biết giành thắng lợi từng phần đi đến giành thắng lợi hoàn toàn nhằm đảm bảo lợi ích cao nhất của đất nước là cách ứng xử bình dị, chân tình, tinh tế, nhạy bén, mềm mỏng nhưng quyết đoán khi cần phải có quyết sách và hành động. Chính phong cách ngoại giao ấy đã có sức cảm hóa và thuyết phục to lớn đối với mọi đối tượng và các tầng lớp nhân dân thế giới.

Dưới sự lãnh đạo của Bác Hồ và của Đảng, ngoại giao Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc đã trở thành một mặt trận cùng "chia lửa" với chiến trường, góp phần tạo nên thế trận chiến tranh nhân dân dưới nhiều hình thức, tạo dựng cục diện "đánh và đàm", phát huy được cao độ tác dụng của sự nghiệp chính nghĩa, đã dấy lên phong trào nhân dân thế giới chống chiến tranh xâm lược Việt Nam rộng khắp và mạnh mẽ chưa từng có trong lịch sử thế giới.

Ngoại giao Việt Nam đã có được những sáng tạo quan trọng. Những sách lược ngoại giao thời kỳ 45-46 đã giúp cho chính quyền cách mạng non trẻ đứng vững trước sự chống phá điên cuồng và dữ dội của các thế lực thù trong giặc ngoài. Ngoại giao Việt Nam đã lớn mạnh và trưởng thành qua Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 và Hiệp định Pa-ri năm 1973 để rồi góp phần làm nên ngày 30/4/1975 lịch sử giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong quá trình đó, ngoại giao Việt Nam đã phát huy vai trò của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Sự kết hợp hài hòa giữa hoạt động ngoại giao của cả hai miền đánh dấu bước phát triển về chất và một đặc thù của ngoại giao Việt Nam.

Sáng tạo của ngoại giao Việt Nam là đã tạo dựng được một nền ngoại giao nhân dân hùng hậu, tạo dựng được một mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam, tận dụng được những thuận lợi to lớn nảy sinh từ tác dụng của ba dòng thác cách mạng thế giới đối với cách mạng Việt Nam. Sáng tạo của ngoại giao Việt Nam là từng bước gây dựng và khai thác tác dụng của ngoại giao đa phương.

Những dấu mốc quan trọng đó đối với nền ngoại giao hiện đại Việt Nam ghi nhận những bước trưởng thành của ngoại giao Việt Nam trên trường quốc tế, đưa nước Việt Nam thống nhất trở thành thành viên của Liên Hợp quốc, có quan hệ bình đẳng với tất cả các nước và các tổ chức quốc tế và khu vực, trở thành thành viên của ASEAN, APEC và các tổ chức quốc tế khác.

Chúng ta tự hào vì chưa khi nào trong lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, Việt Nam lại có mối quan hệ quốc tế rộng khắp, bình đẳng và hữu nghị, có vị thế quốc tế thuận lợi như ngày nay.

Trong giai đoạn hiện nay cũng như mai sau, khi mục tiêu hàng đầu là đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa với hai nội dung cốt lõi là xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế thì sự lãnh đạo của Đảng, tư tưởng và phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh vẫn luôn là kim chỉ nam và sự đảm bảo cho thắng lợi của ngoại giao Việt Nam. Trên nền tảng đó, ngoại giao Việt Nam phải không ngừng tự vận động vươn lên, có nhận thức đúng đắn, bản lĩnh vững vàng, tầm cao trí tuệ và lòng tin son sắt và yêu nước thương dân để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp chung của đất nước.

Chúng ta đang tiến hành công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Phương châm của chúng ta là phát huy tối đa nội lực và tận dụng tối đa ngoại lực. Giữ gìn truyền thống văn hiến là giữ gìn được bản sắc dân tộc, là duy trì được tính độc lập, tự chủ. Kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc lại càng cần thiết trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Chỉ với kế thừa một cách xứng đáng và phát huy mạnh mẽ truyền thống văn hiến và ngoại giao của ông cha, quán triệt và thực hiện phương châm hoạt động ngoại giao trong mối liên hệ hữu cơ mật thiết với an ninh, quốc phòng, với ổn định chính trị xã hội và phát triển, ngành ngoại giao Việt Nam mới có thể làm tốt đồng thời chức năng là cầu nối giữa dân tộc và thời đại, giữa đất nước và thế giới, và nhiệm vụ phục vụ đắc lực cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mới có thể đảm bảo để hội nhập mà không bị hòa tan, không đánh mất mình, hội nhập quốc tế mà giữ gìn và phát huy được bản sắc văn hóa dân tộc.

Kỷ niệm 55 năm ngành ngoại giao Việt Nam trùng vào một thời điểm có ý nghĩa rất to lớn đối với nhân loại và dân tộc ta. Bước chuyển giao thế kỷ và thiên niên kỷ cũng là bước ngoặt trọng đại đối với mỗi một dân tộc trên hành tinh của chúng ta. Thế kỷ 21 sẽ như thế nào đối với nhân loại và đối với Việt Nam?

Chắc chắn thế kỷ 21 sẽ tiếp nối những đặc điểm và tính chất nổi bật nhất của thể kỷ 20: khoa học và công nghệ sẽ phát triển còn nhanh hơn, tác động còn sâu sắc hơn tới tất cả các khía cạnh của đời sống chính trị, kinh tế và xã hội của loài người; cuộc chạy đua về kinh tế và công nghệ sẽ còn gay gắt hơn; sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các quốc gia, các vùng và châu lục sẽ vẫn còn là vấn đề bức xúc; hòa bình, ổn định và phát triển vẫn sẽ là xu thế chính của thời đại, là nguyện ước cháy bỏng của các dân tộc nhưng vấn đề chiến tranh và hòa bình vẫn còn là một mối lo ngại lớn của loài người.

Thời đại chúng ta đang sống vẫn là thời đại của quá độ từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội. Đằng sau những khái niệm mới đã và đang trở thành ngôn từ phổ biến như toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, thương mại điện tử, kinh tế tri thức là những mâu thuẫn cơ bản của thời đại, sự hiện diện của cuộc đấu tranh giữa ý chí độc lập, tự chủ, bình đẳng và giữ gìn bản sắc riêng với ý đồ cường quyền, áp đặt, lạm dụng ưu thế về công nghệ, kinh tế và quân sự, hay nói tổng quát và rõ ràng hơn, cuộc đấu tranh giai cấp vẫn tiếp tục, thậm chí hình thức còn tinh vi hơn, mức độ còn quyết liệt hơn, đòi hỏi các dân tộc vẫn phải luôn tỉnh táo và cảnh giác, chủ động và kiên quyết bảo vệ lợi ích chính đáng của mình.

Song dân tộc Việt Nam đang bước vào thiên niên kỷ mới và thế kỷ mới với những điều kiện thuận lợi mới và vị thế quốc tế cao, mặc dù mục tiêu chúng ta cần phải đạt được còn cao và khó khăn hơn nhiều. Thành quả cách mạng 55 năm qua là những kỳ tích rất đáng tự hào, nhưng hiện tại, những nguy cơ và thách thức đối với đất nước ta, như Đảng ta đã chỉ ra từ nhiều năm nay, đang đặt vận mệnh của đất nước, tương lai của dân tộc trước bước ngoặt quyết định mới: hoặc chúng ta đuổi kịp và vươn lên trước các nước NICs, NIEs trong khu vực, hoặc chúng ta tiếp tục bị tụt hậu. Chúng ta quyết không để đất nước bị tụt hậu. Đấy phải là câu trả lời đanh thép của chúng ta. Chúng ta có đủ khả năng, tiềm năng và ý chí làm việc đó.

Thế kỷ 21 là thế kỷ chúng ta tiếp tục xây dựng và bảo vệ vững chắc chủ nghĩa xã hội trong điều kiện tình hình quốc tế tiếp tục diễn biến mau lẹ, khó lường và vẫn phải cảnh giác đối phó với những ý đồ can thiệp, chống phá, thực hiện diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch.

Chúng ta biết con đường chúng ta phải đi, sự lựa chọn chúng ta đã chọn, đó là tiếp tục đổi mới, phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đó là xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Sự nghiệp này đòi hỏi cố gắng phấn đấu vượt bậc của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, sự tham gia đóng góp của bất cứ ai trong mình mang dòng máu và tâm hồn con cháu Lạc Hồng. Sự nghiệp này đòi hỏi ngành ngoại giao phải tham gia tích cực hơn nữa, đóng góp nhiều và hiệu quả hơn nữa.

Chúng ta có đường lối đối ngoại đúng đắn, thấu tình đạt lý và có sức thuyết phục. Chúng ta vẫn tiếp tục thực hiện chủ trương Việt Nam vừa là bạn, vừa là đối tác tin cậy của tất cả các nước, các dân tộc trên thế giới, ngoại giao Việt Nam vừa phục vụ cho lợi ích của dân tộc, vừa phải đóng góp vào sự nghiệp phát triển chung của nhân loại. Sự đảm bảo cho thắng lợi ngoại giao của chúng ta trong thời kỳ tới vẫn là thấm nhuần và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh và phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh, là sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, là sự chung sức đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trong việc triển khai thực hiện đường lối đối ngoại và là sự thể hiện những giá trị tinh túy nhất của truyền thống ngàn năm văn hiến của dân tộc, của nền ngoại giao tài ba của ông cha ta trong mọi hoạt động và sách lược ngoại giao. Nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao cho ngành ngoại giao trong sự nghiệp vẻ vang nhưng cũng đầy cam go là to lớn và nặng nề, đòi hỏi mọi người phải tiếp tục tích cực phấn đấu, rèn luyện tu dưỡng và học tập hơn nữa thì mới có thể đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ đó.

Bước sang thiên niên kỷ mới và thế kỷ mới, chúng ta phải nhận thức đựơc hết những khó khăn để quyết tâm vươn lên, vượt qua mọi thử thách với niềm tin tuyệt đối vào tương lai của đất nước và chủ nghĩa xã hội, niềm tin đã đi cùng chúng ta từ những ngày đầu của cách mạng và đã giúp chúng ta làm nên những thắng lợi vẻ vang, những thành tích đáng tự hào.

Ngoại giao Việt Nam trước hết phải tiếp tục kế thừa và phát triển một cách xứng đáng truyền thống ngoại giao của ông cha và những thành quả đã đạt được, tiếp tục phát huy cao độ tính giai cấp, chủ động tiến công, vững vàng nguyên tắc, sách lược linh hoạt, trung thành với lợi ích của dân tộc, phát huy sức mạnh từ đường lối đối ngoại hòa bình, hòa hiếu, chính nghĩa và thủy chung, từ những giá trị nhân văn cao cả của tư tưởng và phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh, vững lòng tin vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, phát huy những thế mạnh của cả dân tộc và ưu thế đặc thù của ngành mà vươn lên, tạo ra thời cơ, vận hội mới cho đất nước.

Thứ hai, ngoại giao Việt Nam phải góp phần tạo ra được thế đứng ổn định lâu bền và có lợi nhất cho đất nước trong thời đại toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, hợp tác và đấu tranh đan xen nhau.

Trong sự định hướng chiến lược lâu dài, vấn đề đặt ra là vào từng thời điểm xử lý một cách thích hợp các mối quan hệ với từng đối tác ở khu vực và trên thế giới, thích hợp với tầm vóc của đất nước, với vị trí địa - chính trị của đất nước ta, với mối quan hệ của đất nước ta với từng đối tác.

Trước sự chồng chéo các mối quan hệ, trong sự cọ xát và tương tác của các lợi ích, ngoại giao Việt Nam phải tìm được cho mình đường đi, nước bước, phải có sự suy xét hiện tại và lâu dài, phải có dự báo và chuẩn bị cho tương lai, phải chủ động và linh hoạt ra sao để bảo vệ và thực hiện được tốt nhất lợi ích của mình, để thực hiện triệt để và thành công chính sách đối ngoại "Việt Nam muốn làm bạn và đối tác tin cậy với tất cả các nước" trên cơ sở giữ vững những nguyên tắc cơ bản về đối ngoại của Đảng và Nhà nước, đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân tiến bộ trên thế giới.

Thứ ba, ngoại giao Việt Nam phải là lực lượng chủ lực, đi đầu trong việc tạo dựng và thực hiện quá trình hội nhập quốc tế. Thành quả và kinh nghiệm của 55 năm qua, đặc biệt là 15 năm đổi mới, đã cho thấy chúng ta có đầy đủ điều kiện và khả năng để chủ động vận hành toàn bộ quá trình hội nhập quốc tế của đất nước. Hội nhập kinh tế quốc tế là sự bổ sung không thể thiếu được cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cho việc xây dựng thành công nền kinh tế độc lập, tự chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hội nhập quốc tế phải đi cùng với giữ vững độc lập, tự chủ, đảm bảo ổn định chính trị, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Hội nhập quốc tế phải trên cơ sở duy trì và phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tự tôn dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc.

Thông tin đối ngoại đóng vai trò vô cùng quan trọng. Càng giới thiệu Việt Nam với thế giới được nhiều hơn, đầy đủ hơn, kịp thời hơn và đúng hơn sẽ làm cho thế giới hiểu rõ Việt Nam hơn và tăng cường thiện cảm với Việt Nam hơn. Sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta rạng ngời chính nghĩa và ngoại giao phải tiếp tục tuyên truyền cho sự nghiệp chính nghĩa ấy.

Thứ tư, ngoại giao phải tăng cường hơn nữa công tác phục vụ kinh tế. Phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội cần phải được coi là một trong những nội dung chính, được ưu tiên hàng đầu của hoạt động đối ngoại. Vấn đề này có lẽ không phải là mới mẻ và trên thực tế cũng đã được tiến hành. Tôi biết trong thời gian gần đây, ngành ngoại giao đã tăng cường chú trọng, đẩy mạnh công tác này. Tôi hoan nghênh những nỗ lực ấy của ngành ngoại giao. Nhưng trong những năm tới, phát triển kinh tế sẽ quyết định chúng ta có đuổi kịp các nước NICs, NIEs trong khu vực hay không. Yêu cầu đòi hỏi là rất lớn, nhiệm vụ phục vụ phát triển kinh tế là rất nặng nề đặt ra cho tất cả các ngành, đặc biệt là ngành ngoại giao về phương diện tranh thủ cao độ nguồn lực từ bên ngoài để bổ xung và phát huy cao độ nội lực. Hiệu quả kinh tế cần được coi như một thước đo kết quả công tác đối ngoại và tất cả các bộ, ban, ngành và địa phương trong nước đều có trách nhiệm hợp tác và hỗ trợ ngành ngoại giao hoàn thành tốt nhiệm vụ này.

Thứ năm là vấn đề đào tạo nhân lực, hay nói cách khác, là vấn đề con người. Cha ông ta đã từng đúc kết "Nhân tài là nguyên khí của quốc gia". Ngoại giao Việt Nam phải có những thế hệ cán bộ ngoại giao có đức, có tài, đại diện xứng đáng cho dân tộc, góp phần làm rạng danh đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đào tạo và bồi dưỡng nhân lực là chiến lược vô cùng quan trọng và lâu dài, phải làm thường xuyên và luôn hướng vào yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao hơn của những chặng đường tới.

Đảng và Nhân dân ta tin tưởng rằng trong giai đoạn cách mạng mới, ngành ngoại giao sẽ hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao phó, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng và Nhân dân, xứng đáng là một binh chủng quan trọng của sự nghiệp cách mạng cao cả của dân tộc, như đã từng thể hiện trong 55 năm qua./.

Cùng chuyên mục